1- Giới thiệu
Nghiên cứu tiến trình phát triển của truyền thông xã hội trong dòng lịch sử của Giáo hội Công giáo là một đề tài khá rộng. Điều này có thể được hiểu là lịch sử của truyền thông xã hội trong Giáo hội cũng được phát triển song song với lịch sử của Giáo hội, thậm chí còn có nguồn gốc trước khi Giáo hội khai sinh, theo nghĩa rộng. Do đó, nó trở thành một thách đố không nhỏ cho những người nghiên cứu về truyền thông xã hội. Khó khăn này thường đến từ quan điểm truyền thống của nhiều người khi họ đứng ở hiện tại để nhìn về quá khứ và cố gắng gán cho những biến cố và sự kiện trong quá khứ một yếu tố chủ quan và liên quan trực tiếp đến chủ đề mà họ muốn nghiên cứu, hoặc cố gắng thay đổi lớp áo bên ngoài của nó và đưa vào khung suy tư của họ, ở đây, tôi đang muốn đề cập đến ‘chiếc áo truyền thông xã hội’ để khoác vào những biến cố và sự kiện trong lịch sử Giáo hội.
Đây có lẽ không đơn giản chỉ là cách chúng ta đặt tên cho những biến cố trong lịch sử liên quan đến những gì gọi là truyền thông giống như cách chúng ta gọi tên một đồ vật nào đó. Chúng ta sẽ chẳng xa lạ gì khi nghe đến việc rửa tội cho một khái niệm mang tính trần thế, để rồi trở thành như một khái niệm được sử dụng trong nền thần học Kitô giáo một cách chính thức và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Điều đó chỉ là một phần của vấn đề trong việc nghiên cứu lịch sử phát triển của thần học truyền thông Công giáo. Việc phát triển nền tảng thần học về truyền thông sẽ cho chúng ta cái nhìn rõ nét và sâu sắc hơn trong lĩnh vực này. Vấn đề ở đây là nghiên cứu về truyền thông Công giáo trong khóe nhìn về lịch sử phát triển của truyền thông xã hội. Do đó, cách triển khai vấn đề trong lịch sử thường mang tính chất trình bày hơn là giải thích chi tiết nhưng vẫn đảm bảo mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu là giúp người đọc thấy được chiều dài lịch sử của truyền thông xã hội và sự phát triển của nó trong dòng lịch sử của Giáo hội.
Vì thế, mối tương quan giữa Giáo hội và truyền thông xã hội theo dòng lịch sử Giáo hội qua nhiều thế kỷ được tìm hiểu khái quát trong bài viết này sẽ cho chúng ta thấy được một trong những bản chất của Giáo hội: truyền thông. Bản chất truyền thông của Giáo hội đến từ chính Thiên Chúa và trở thành cách thức để dân Thiên Chúa giao tiếp với Thiên Chúa trong suốt lịch sử cứu độ, cho đến khi Đức Giêsu mặc khải cách thức truyền thông mới theo mô hình của Ngài ngang qua Mầu nhiệm Vượt Qua, thì truyền thông đã trở thành trung tâm điểm trong các hoạt động của Kitô giáo, đồng thời trở thành con đường vững chắc cho Giáo hội trong cách tiếp cận với thế giới và loan báo Tin mừng ngang qua những phương tiện truyền thông. Truyền thông, đó là hướng đi và chọn lựa trong hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của Giáo hội, cả Giáo hội hoàn cầu lẫn Giáo hội địa phương.[1]
2- Bản chất của Giáo hội là truyền thông
Khẳng định này được nhiều tài liệu và các học giả trong lĩnh vực truyền thông nhắc đến nhiều lần.[2] Điều này muốn gợi nhắc cho chúng ta về lịch sử của truyền thông Công giáo không đơn giản chỉ là một tác vụ của Giáo hội, đặc biệt trong thời đại kỹ thuật số, nhưng truyền thông chính là cách để Giáo hội hiện hữu. Nói khác đi, Giáo hội không thể tồn tại nếu không truyền thông. Rõ ràng, truyền thông của Giáo hội tiến triển liên tục trong dòng lịch sử nhân loại và là cách để Giáo hội mang thông điệp Tin mừng đến với con người. Sứ vụ này đặc biệt đến nỗi chúng ta có thể nói rằng Giáo hội mang nơi mình bản chất kép: truyền giáo và truyền thông.
Truyền thông của Giáo hội bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng truyền thông chính mình cho nhân loại.[3] Thiên Chúa mà Đức Giêsu mặc khải trong suốt hành trình sứ vụ của Ngài là một Thiên Chúa tự truyền thông. Ngài có khả năng tự thông truyền chính mình cho các ngôi vị khác. Thiên Chúa không cần ai ban cho Ngài khả năng truyền thông, nhưng tự bản chất, Thiên Chúa có thể tự chia sẻ chính mình cho các ngôi vị trong cộng đoàn Ba Ngôi. “Cha, Con và Thánh Thần truyền thông lẫn cho nhau trong các chuyển động nội tại của Ba Ngôi.”[4] Nhờ vào bản chất tự thông truyền trong gia đình Ba ngôi nên Ngài là một Thiên Chúa có thể thông truyền chính mình cho các ngôi vị và cho cả thụ tạo của Người. “Thiên Chúa thông ban chính Ngài trong trật tự của tạo dựng và ân sủng, và mầu nhiệm nhập thể là cao điểm của sự trao ban này, sự tự thông truyền thiêng liêng này.”[5]
Thiên Chúa không ngừng mặc khải tất cả những gì về Ngài cho Giáo hội qua Đức Giêsu Kitô, nhà truyền thông vĩ đại của Thiên Chúa. Giáo hội sẽ chẳng bao giờ nhận ra được bản chất truyền thông của mình nếu Đức Giêsu không mặc khải cho Giáo hội biết về chính bản chất Thiên Chúa của Ngài. Giáo hội là Hiền thê của Đức Kitô nên Giáo hội được chia sẻ bản tính truyền thông của Đức Giêsu một cách trọn vẹn (x. Ep 5, 25). Qua đó, Giáo hội bắt đầu định hình về chính mình trong lịch sử, lịch sử của một Giáo hội truyền thông. Bản chất truyền thông của Giáo hội được bộc lộ rõ trong dòng lịch sử qua từng biến cố và được chính thức nhìn nhận trong Ngày Lễ Ngũ Tuần.[6]
Giáo hội mang nơi mình bản chất truyền thông, đương nhiên không phải là yếu tố ngẫu nhiên nhưng là một hồng ân đến từ Thiên Chúa. Đây được xem là một kế hoạch có từ muôn đời và được xuất phát từ Thiên Chúa. Có thể nói rằng, theo nghĩa rộng, lịch sử cứu độ cũng chính là lịch sử truyền thông. Rõ ràng, để chuẩn bị cho một kế hoạch tương quan và gặp gỡ nhân loại, Thiên Chúa đã có một kế hoạch vừa rõ ràng, vừa mầu nhiệm. Kế hoạch này được khởi đầu từ biến cố sáng tạo cho đến khi được hoàn tất trong Đức Kitô và tiếp tục được Giáo hội tiếp nhận và phát triển cho đến ngày nay. Lịch sử truyền thông đó vẫn tiếp tục được phát triển trong suốt chiều dài lịch sử ngang sự tác động của Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần được nhìn như là biểu hiện không ngừng của việc Thiên Chúa tự truyền thông cho mọi dân tộc và mọi thời đại.”[7] Chính Thần Khí của Thiên Chúa làm cho lịch sử của truyền thông Công giáo luôn mới mẻ và phù hợp với từng hoàn cảnh và môi trường truyền giáo cho đến ngày nay.
3- Con người được chia sẻ khả năng truyền thông của Thiên Chúa ngang qua công trình tạo dựng
Thiên Chúa tự bản chất là truyền thông. “Thiên Chúa là tình yêu.” (1Ga 4, 16) Và tình yêu này được biểu lộ qua việc thông truyền chính mình của Thiên Chúa cho các ngôi vị khác, và khả năng truyền thông đó được trào tràn tới các thụ tạo của Người trong công trình tạo dựng. Nói khác đi, “Thiên Chúa tự bản chất là truyền thông. Ngài truyền thông chính mình cho thế giới và giúp cho chính thế giới trở thành truyền thông để nhờ đó toàn thể tạo vật trong thế giới trở nên giống Người và đạt tới mối hiệp thông mật thiết nhất với Ngài.”[8] Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần như sợi dây liên kết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Thần là sự hiệp thông trong tiến trình truyền thông giữa Cha và Con. “Thánh Thần là chia sẻ, là truyền thông.”[9] Điều này chỉ được hoàn thành khi mối tương quan giữa Ba Ngôi dựa trên khả năng yêu và thông truyền giữa các ngôi vị. Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa khi Ngài không có khả năng truyền thông.
Khả năng truyền thông của Thiên Chúa được trao ban cho các thụ tạo của Ngài. Qua công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh và giống Ngài (x. St 1, 27). Đây là yếu tố quyết định và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử truyền thông của con người. Con người có khả năng truyền thông bởi vì con người được dựng nên bởi chính Thiên Chúa truyền thông. “Thiên Chúa Ba Ngôi không đóng kín trong mình, Người tự mặc khải và truyền thông với các tạo vật của Người, để biến chúng thành các đối tác của Người.”[10] Khả năng truyền thông của con người khiến họ có khả thể đến với Thiên Chúa và gặp gỡ Thiên Chúa, đồng thời con người cũng có khả năng gặp gỡ nhau và truyền thông những giá trị nhận được từ Thiên Chúa cho nhau. Con người chia sẻ những khả năng Thiên Chúa ban cho đồng loại và tạo nên xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người là một xã hội có khả năng tương giao với những người khác. (x. St 2)
Tuy nhiên, trong cộng đồng nguyên thủy hạnh phúc đó, con người đã không giữ được khả năng truyền thông của mình một cách trọn vẹn. Họ đã đánh mất khả năng giao tiếp hoàn hảo của mình với Thiên Chúa và với đồng loại chỉ vì sự không vâng lời của họ. (x. St 3) Tội lỗi đã dần phá hủy cuộc giao tiếp được thiết lập giữa con người với Thiên Chúa. Chính vì sự không vâng lời của con người mà họ đã không còn khả năng giao tiếp hoàn hảo với Thiên Chúa. Con người không còn hiểu Thiên Chúa và thánh ý của Ngài. Điều này cũng có nghĩa là khả năng giao tiếp của con người với nhau cũng bắt đầu bị hao mòn. Vì thế, con người cũng không thể hiểu biết nhau và truyền thông cho nhau những giá trị tốt đẹp. Cuộc đối thoại của con người với Thiên Chúa dường như không còn như trước nữa vì con người không còn muốn lắng nghe tiếng nói đến từ Thiên Chúa.
Trong bối cảnh mà khả năng truyền thông của con người ngày một bị hao mòn, Thiên Chúa đã bắt đầu có một chương trình mới cho họ. Ngài muốn phục hồi khả năng truyền thông của con người. Thiên Chúa đã chuẩn bị kế hoạch cho con người ngang qua các ngôn sứ của Người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” (Dt 1, 1-2).
Qua từng thời kỳ của lịch sử, Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại những người thay cho tiếng nói của Thiên Chúa. Tiếng nói đó vốn được xem là khả năng truyền thông của Thiên Chúa được tiếp tục hoạt động để duy trì kế hoạch của Thiên Chúa. Những người đại diện cho Thiên Chúa được xem như cách mà Thiên Chúa chuẩn bị để kết nối và phục hồi khả năng truyền thông của con người. Đỉnh cao của sự chuẩn bị của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa (x. Ga 1, 1-18). Thiên Chúa truyền thông và mặc khải chính mình theo một cách đặc biệt trong biến cố Nhập thể của Con Một của Ngài.[11] Đấng mà Gioan đã diễn tả trong Tin mừng của mình rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1, 14) Chính Đức Giêsu sẽ đem đến cho nhân loại một cách thức truyền thông mới và trở thành khuôn mẫu cho tất cả những nhà truyền thông.[12]
4- Đức Kitô, khuôn mặt của một vị Thiên Chúa truyền thông
Đức Kitô được xem là nhà truyền thông hoàn hảo của Chúa Cha. Điều này xuất phát từ bản chất của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa với khả năng tự truyền thông chính mình. “Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, mặc khải sự sống thần linh là sự thông truyền và chia sẻ.”[13] Không thụ tạo nào có khả năng hiểu Thiên Chúa ngoại trừ Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô (x. Mt 11, 27). Đức Kitô thấu hiểu kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa bởi vì Ngài kín múc nguồn mạch từ chính Chúa Cha. Điều đó có thể khẳng định cách chắc chắn rằng, chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thông truyền một cách trọn vẹn kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa cho nhân loại. Chính Ngài là “con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6) Ngoài Đức Giêsu, không ai có thể thông truyền thánh ý của Thiên Chúa một cách trọn vẹn và hoàn hảo.
Biến cố Nhập thể được xem là sự kiện đánh dấu một cách hữu hình về kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa. Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài cũng chính là hiện thân của kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa, một kế hoạch thông truyền vì tình yêu dành cho con người. Kế hoạch truyền thông vĩ đại được khởi đi từ biến cố đơn giản và hèn mọn nhất lịch sử, “Ngài đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi”[14]. Nơi biến cố nhập thể, nhà truyền thông cũng là tác nhân chính của tiến trình truyền thông. Việc Đức Giêsu trở nên giống con người hoàn toàn đã toát lên một khả năng truyền thông tuyệt đối về tình yêu của Thiên Chúa cho con người, đến nỗi chúng ta có thể nói “Chúa Giêsu phản ánh và thực hành ‘giao tiếp xã hội’ cách hoàn hảo trong xã hội.”[15]
Kế hoạch truyền thông được thực hiện bởi Đức Giêsu tiếp tục diễn tiến trong suốt cuộc đời hoạt động công khai của Ngài. “Đức Giêsu giao tiếp với mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, dựa trên chính sự truyền thông liên tục với Chúa Cha trong lời cầu nguyện.”[16] Đức Giêsu bắt đầu tiến trình truyền thông của ngài trong sứ vụ công khai bằng biến cố chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả như một dấu ấn quan trọng của một tiến trình truyền thông của sự khiêm tốn và hạ mình. Qua đó, Ngài chuyển giao những sứ điệp tình yêu của Chúa Cha qua những hoạt động trong cuộc đời của Ngài. “Đức Giêsu bắt đầu giao tiếp từ kinh nghiệm sống của những người xung quanh, sử dụng chúng làm điểm khởi đầu cho thông điệp của mình. Ngài giao tiếp thông qua cách kể chuyện với các câu chuyện ngụ ngôn. Ngài nói chuyện với những người khác như Nicôđêmô, người phụ nữ Samari, với Ladarô và hai chị gái của anh trong cuộc giao tiếp mang tính cá vị. Ngài chia sẻ với các môn đệ và những người khác trong cuộc giao tiếp nhóm, ngài thuyết giảng và dạy dỗ cho những đám đông lớn hơn ở Biển Hồ và trên núi trong các cuộc giao tiếp mang tính đại chúng.”[17] Những bài giảng của Đức Giêsu chất chứa một sứ điệp quan trọng về Thiên Chúa tình yêu. Đức Giêsu biểu lộ khuôn mặt của một Thiên Chúa truyền thông dưới nhiều cấp độ và nhiều cách thức khác nhau.
Đỉnh cao của một tiến trình truyền thông của Đức Giêsu chính là biến cố Vượt Qua. “Ngài truyền thông một cách đặc biệt và chủ yếu qua sự thinh lặng trong Cuộc Khổ nạn và Thập giá của mình.”[18] Khả năng truyền thông của Đức Giêsu được thể hiện cụ thể và rõ nét bằng việc chấp nhận cái chết như một bước tiến quan trọng để hoàn thành kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa. Nói khác đi, cái chết của Đức Giêsu và sự Phục sinh của Ngài chính là tột đỉnh biểu lộ những giá trị cao đẹp nhất của một Thiên Chúa tình yêu và điều đó cũng biểu lộ những sức mạnh về một Thiên Chúa truyền thông chính mình theo cách của Thiên Chúa.
Cách thức độc nhất và hoàn hảo này vẫn được tiếp tục sau khi Đức Giêsu lên trời. Lệnh truyền của Đức Giêsu cho Giáo hội như là một di sản sống động mà qua bao thế hệ Kitô giáo vẫn được bảo tồn. Lệnh truyền đó không gì khác hơn là để truyền thông Tin mừng của Ngài cho toàn thể nhân loại với sự sáng tạo và sự cam kết.[19] Giáo hội sơ khai đã tiếp nhận lệnh truyền từ Đức Giêsu và tiếp tục cách thức truyền thông của Ngài trong sứ vụ của các môn đệ. Họ bắt đầu trở nên những chứng nhân của Tin mừng về một Thiên Chúa truyền thông trong bối cảnh đầy thách đố thời đó. Cuộc đời của các môn đệ chính là khuôn mẫu để diễn tả lệnh truyền của Thiên Chúa một cách sống động nhất. Nói khác đi, truyền thông là yếu tố sống còn của Giáo hội sơ khai.
5- Truyền thông là trọng tâm và trung tâm trong đời sống của Giáo hội
Chúng ta cần xác định một lần nữa rằng, lịch sử cứu độ là lịch sử về một Thiên Chúa truyền thông. Do đó, “toàn thể lịch sử cứu độ có thể được coi như một lịch sử của việc Thiên Chúa tự truyền thông.”[20] Tất cả các biến cố trong lịch sử cứu độ đều có sự tác động từ Thiên Chúa tự truyền thông chính mình. Từ việc truyền thông trong cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa đã tiếp cận tới thụ tạo của Ngài. Qua đời sống cầu nguyện, Đức Giêsu luôn tìm cách kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và không ngừng học hỏi những bài học truyền thông từ chính đời sống nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và do đó, như một Giáo hội được khai sinh bởi Đức Giêsu, Giáo hội luôn nỗ lực để phản chiếu chính hình ảnh của vị Hôn phu của mình và học nơi Ngài việc truyền thông mà chính Ngài đã kín múc từ Chúa Ba Ngôi.
Vì thế, truyền thông không còn là một tiến trình mà Giáo hội phải thực hiện nhưng nó đã trở nên trung tâm và trọng tâm trong đời sống của Giáo hội. Giáo hội không thể tồn tại nếu không có truyền thông bởi vì Giáo hội xuất phát từ chính Thiên Chúa tự thông truyền. Có thể nói, tất cả mọi hoạt động của Giáo hội chỉ để làm chứng về một Thiên Chúa truyền thông và thông truyền chính Ngài theo cách thức của Đức Giêsu, nhà truyền thông hoàn hảo.
Truyền thông đã ăn sâu vào trong đời sống của Giáo hội như là một tác nhân sống động. Tất cả mọi suy tư của Giáo hội đều biểu lộ cách thức truyền thông của Giáo hội đến nỗi Martini đã ví nó như một chủ đề được lập đi lập lại trong bản nhạc giao hưởng. Những suy tư về truyền thông đã xuất hiện trong những nghiên cứu về Thần học khiến cho việc nghiên cứu thần học không được trọn vẹn nếu không xem nó dưới khía cạnh truyền thông. Chính lúc đó, truyền thông trở thành nguyên tắc của Thần học.[21] Điều này thực sự quan trọng trong hướng đi của Giáo hội cũng như trong cách mà Giáo hội suy tư về chính mình.
Mở ra để giao tiếp với thế giới ngoài Kitô giáo chính là hướng đi đúng đắn của Giáo hội, khi Giáo hội nhận ra bản chất truyền thông của mình. Giáo hội của Đức Giêsu cần thiết để truyền thông và truyền thông để Giáo hội trở nên môn đệ đích thực. Truyền thông quan trọng đối với Kitô giáo đến nỗi mà chúng ta có thể nói rằng, “Kitô giáo là một tôn giáo ưu việt của truyền thông, vì Thiên Chúa trong bản tính thâm sâu nhất của Ngài là một mầu nhiệm của việc tự thông truyền.”[22] Khi Giáo hội đánh mất khả năng thông truyền của mình, Giáo hội đang dần hủy hoại của chính mình và đồng thời Giáo hội cũng làm mờ khuôn mặt của Thiên Chúa trong thế giới. Nói tắt, truyền thông xã hội là phần quan trọng và thiết yếu của việc giảng dạy và trong đời sống của Kitô giáo.
6- Lịch sử Kitô giáo gắn liền với sự phát triển của truyền thông xã hội
Xoay quanh tâm điểm về bản chất truyền thông của mình, Giáo hội nhìn thế giới với đôi mắt của những nhà truyền thông. Tầm nhìn về truyền thông của Giáo hội đã có những giai đoạn bị cản trở bởi quan niệm sai lầm của các Kitô hữu. Họ đóng khung việc truyền thông của Giáo hội vào những công cụ truyền thông và các kỹ thuật trong ngành truyền thông. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cách thức truyền thông của Giáo hội và khiến cho Giáo hội không thể diễn tả khuôn mặt của Đức Giêsu cho thế giới theo một cách đúng đắn. Điều đáng nói hơn nữa là quan niệm sai lầm về truyền thông đã cản trở việc loan báo Tin mừng của Giáo hội, vốn dĩ là một trong hai yếu tố, cùng với truyền thông, tạo nên khuôn mặt hoàn hảo và trọn vẹn của Giáo hội.
Rất may mắn khi Giáo hội đã nhận ra giới hạn của mình bằng việc khám phá lại khuôn mặt của nhà truyền thông vĩ đại, Đức Giêsu, và nhìn lại bản chất của Giáo hội trong những suy tư về thần học. Truyền thông của Giáo hội không chỉ là việc sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng nhưng chính là cách thức truyền thông của Giáo hội. Con đường mà Giáo hội chọn lựa để truyền thông không chỉ diễn ra trong đời sống Giáo hội nhưng còn được hướng tới thế giới bên ngoài. Vì thế, Giáo hội nhận ra rằng sự phát triển của Giáo hội phải luôn gắn liền với sự phát triển của truyền thông xã hội. Đây là một trong những nét nổi bật và tiến bộ của Công đồng Vatican II trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Truyền thông của Giáo hội là việc truyền thông hướng đến mọi tầng lớp trong xã hội.
Trở lại những ngày đầu của lịch sử Giáo hội, Giáo hội bắt đầu với những cuộc họp đầy bí mật vì phải đối diện với những thách đố từ bên ngoài. Ngoài việc thực hiện lệnh truyền loan báo Tin mừng của Đức Giêsu, Giáo hội còn lưu tâm đến việc ghi lại tất cả mọi biến cố và sự kiện đã diễn ra trong đời sống Giáo hội. Nhu cầu cấp thiết này dường như đã khiến cho các thư viện trong Giáo hội bắt đầu được ra đời, bắt đầu từ các Tu viện của Kitô giáo. Trong bối cảnh mà Hoàng Đế Constantine trở lại Kitô giáo và công nhận Kitô giáo là quốc giáo vào khoảng năm 300 sau Công nguyên, việc lưu trữ các tài liệu trong Giáo hội trở nên phổ biến rộng rãi hơn. “Mỗi tu viện đều có một “nơi soạn thảo”, một khu vực đặc biệt để sao chép sách bằng tay và bảo quản chúng. Cũng chính vì vậy mà nhiều bảo vật, tư tưởng của các triết gia Hy Lạp và văn hóa La Mã đã được lưu giữ và lưu truyền cho hậu thế.”[23]
Sự phát triển của truyền thông xã hội của Giáo hội trong suốt nhiều thế kỷ chỉ dừng lại ở việc lưu trữ tài liệu một cách đơn giản. Tuy nhiên, việc ghi chép lại bằng tay cũng chỉ là một giải pháp tạm thời trong việc lưu trữ và phổ biến tài liệu. Vả lại, nguy cơ những tài liệu bị thất lạc và bị đánh cắp là vấn đề được đặt ra cho các Kitô hữu thời đó. Đó là một thách đố lớn cho Giáo hội trong những giai đoạn mà sự phát triển của truyền thông chưa được đánh giá cao. Thật thú vị khi Johannes Gutenberg phát minh ra máy in giúp cho việc in ấn và tạo ra những sản phẩm truyền thông cách dễ dàng chính là lúc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không chỉ trong lĩnh vực in ấn nhưng cho cả truyền thông xã hội nói chung.[24] Một trong những điều lợi ích mà phát minh này đem lại đó là một số lượng lớn các cuốn sách ra đời với giá cả phải chăng và tạo điều kiện thích hợp cho việc phổ biến sách một cách nhanh chóng. Vì thế mà Kinh Thánh đến tay nhiều người đọc hơn trước kia. Những suy tư về thần học của Giáo hội bắt đầu được ghi lại và xuất bản một cách chính thức. Đây chính là cơ sở quan trọng để những tư tưởng thần học của Giáo hội được lan rộng đến các quốc gia trên thế giới.
Từ những phát minh về việc in ấn, truyền thông của Giáo hội thường dẫn đầu trong lĩnh vực truyền thông thời kỳ đó, và tiếp tục được phát triển và thay đổi qua từng giai đoạn của lịch sử.[25] Có thể nói, những phát minh mới trong ngành in ấn đã được sử dụng cho mục đích loan báo Tin mừng của Giáo hội thực sự hiệu quả. Việc truyền giáo của Giáo hội trở nên thành công hơn nhờ những tài liệu được in ấn một cách nhanh chóng với số lượng lớn. Đây không chỉ là bước đi vững chắc cho ngành truyền thông của Giáo hội mà còn là bước tiến quan trọng trong công việc truyền giáo của Giáo hội.[26]
7- Công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông tạo nên một bước ngoặt mới của truyền thông xã hội từ sau Công đồng Vatican II
“Những phát triển nêu trên đã khiến báo chí và các ấn phẩm khác thay đổi từ ‘độc giả ưu tú’ sang ‘báo chí bình dân’ rẻ hơn vào thế kỷ 19.”[27] Nhưng những thành tựu này có lẽ vẫn chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển tải thông điệp của con người. Con người bắt đầu dấn thân vào khám phá những phương tiện khác hiệu quả hơn để phục vụ cho lĩnh vực truyền thông. Vì thế, những phát minh mới trong lĩnh vực thông tin được ra đời vào thế kỷ thứ 20 như điện ảnh, đài phát thanh, truyền hình và máy tính đã tạo nên một bước tiến khác cho truyền thông. Những kỹ thuật mới trong khoa học máy tính đã tác động mạnh mẽ đến Kitô giáo, vừa là lợi thế nhưng cũng là thách đố lớn cho ngành báo chí. Tuy nhiên, nó lại mở ra cơ hội để Giáo hội tiếp cận với những sự phát triển kỹ thuật tinh vi và hiệu quả hơn. Vấn đề lớn nhất mà Giáo hội quan tâm vẫn là cách sử dụng những phương tiện truyền thông mới như thế nào một cách hợp lý và có trách nhiệm.
Rõ ràng, thái độ mà Giáo hội tiếp cận với những phương tiện truyền thông hiện đại không còn là từ chối và khước từ, nhưng là đón nhận chúng với sự trân trọng và chọn lọc, bởi đó là sáng kiến của con người và nó được xuất phát từ khả năng về trí tuệ mà Thiên Chúa ban cho họ. Điều này được nhận ra rõ ràng trong tiến trình của Công đồng Vatican II. Đó là “hội nghị đầu tiên theo hướng đi này trong lịch sử xem xét truyền thông xã hội với những cuộc thảo luận và tài liệu đặc biệt.”[28]
Giáo hội tiếp nhận những phương tiện truyền thông mới là cách Giáo hội đang tôn trọng những tài năng thực sự của con người. Vì thế, “trong những phát minh kỳ diệu về kỹ thuật, mà, nhờ ơn Chúa, tài năng con người đã từng khai thác từ tạo vật, nhất là trong thời đại chúng ta, thì Giáo Hội là Mẹ, đặc biệt ân cần tiếp đón và theo dõi, từ những phát minh liên quan đặc biệt tới tinh thần con người, đến những phát minh mở nhiều con đường mới để truyền thông một cách hết sức dễ dàng đủ các loại tin tức, tư tưởng và mệnh lệnh.[29] Điều này cho thấy Giáo hội đang thực sự mở ra để đón nhận những cơ hội từ bên ngoài để thay đổi cách thức truyền thông của Giáo hội. Nó có tác dụng không chỉ với những cá nhân bên trong Giáo hội nhưng còn ảnh hưởng đến các tổ chức trong xã hội nữa. Qua đó, Giáo hội ý thức rằng, nếu những phương tiện truyền thông mới này được sử dụng một cách hữu ích nó sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Giáo hội và xã hội. “Chúng góp phần to lớn vào việc mở rộng và phong phú thêm tâm trí con người.”[30]
Công đồng Vatican II được xem là giai đoạn đánh dấu bước tiến đáng kể nhất trong lịch sử Giáo hội liên quan đến khía cạnh truyền thông xã hội. Đương nhiên là việc công nhận những phương tiện truyền thông hiện đại khi tiếp cận chúng không còn là vấn đề được bàn thảo. Vấn đề được thảo luận của công đồng chính là xem xét truyền thông theo khía cạnh thần học và những cách thức truyền thông theo cách sâu sắc và học thuật hơn. Do đó, những tài liệu của Giáo hội trong lĩnh vực truyền thông lần lượt được soạn thảo tỉ mỉ và kỹ lưỡng, và được công bố chính thức trong Giáo hội như một hướng dẫn quan trọng trong lĩnh vực truyền thông. Có thể nói, sắc lệnh Inter Mirifica được xem là tài liệu đầu tiên trình bày lập trường của Giáo hội trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Chính sự mới mẻ của tài liệu này có thể là lý do khiến nó không hoàn hảo và đầy đủ như một số tín hữu có thẩm quyền trong ngành truyền thông xã hội mong muốn.[31] Tuy nhiên, cùng với hướng dẫn mục vụ Communio et Pregressio, sắc lệnh Inter Mirifica đã giúp Giáo hội vạch ra một hướng đi mới trong lĩnh vực truyền thông và đặt nền móng vững chắc cho những bước tiến về truyền thông trong Giáo hội sau này. Truyền thông xã hội không còn là lĩnh vực phụ tùy nhưng trở thành mối quan tâm chính của các triều đại Giáo hoàng và của các Kitô hữu.
Kể từ khi Công đồng Vatican II thảo luận một cách nghiêm túc và đưa ra những tài liệu chính thức trong lĩnh vực truyền thông, truyền thông xã hội bắt đầu được thừa nhận và được đánh giá cao. Truyền thông xã hội được xem là món quá quý giá đến từ Thiên Chúa và cần phải tiếp tục vận dụng chúng vào trong khía cạnh mục vụ truyền giáo của Giáo hội. Một cách tiếp cận mới đối với truyền thông xã hội được phát triển bởi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II với Thông điệp Redemptoris Missio khi ngài tuyên bố lĩnh vực truyền thông được xem như là khu chợ đầu tiên “Areopagus” của thời hiện đại. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải ý thức hơn về khuôn mặt của Areopagus mới, được định hình bởi phương tiện truyền thông trong bình diện rộng lớn, đặc biệt trong lĩnh vực truyền giáo của Giáo hội trong thời đại mới.[32] Phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên một yếu tố quan trọng trong hầu hết mọi lĩnh vực của Giáo hội, cách riêng trong lĩnh vực thông tin và giáo dục. Dù muốn hay không, những hành vi của mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng bởi sự tác động những phương tiện truyền thông. Có thể nói, trong số những yếu tố tác động đến nhân cách của con người, các phương tiện truyền thông đại chúng được xem là một yếu tố có tác động mạnh mẽ và nhanh nhất. Nhân cách của những người trẻ trong thế giới ngày nay đang được định hình và điều chỉnh bởi chính phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, Giáo hội nên đồng hành và hướng dẫn thế hệ trẻ nhiều hơn trong việc sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng liên quan đến việc giáo dục đức tin Kitô giáo cho người trẻ.[33]
Vì thế, sau Công đồng Vatican II, các Giáo hoàng đặc biệt quan tâm đến truyền thông trong triều đại Giáo hoàng của mình bằng cách canh tân hệ thống truyền thông của Giáo hội. “Cùng với các phương tiện truyền thống như chứng tá đời sống, giáo lý viên, tiếp xúc cá nhân, lòng đạo đức bình dân, phụng vụ và các cử hành tương tự, việc sử dụng các phương tiện truyền thông ngày nay rất cần thiết trong việc truyền giáo và dạy giáo lý.”[34] Điều này được minh chứng qua các tài liệu của các Đức Giáo hoàng trong hầu hết mọi khía cạnh của lĩnh vực truyền thông xã hội, đặc biệt đạo đức và luân lý trong truyền thông cũng như việc truyền giáo của Giáo hội trong nền văn hóa.[35] Trên thực tế, trong quan điểm về truyền thông của mình, Giáo hội muốn vượt xa những mối quan tâm truyền thống về quyền sử dụng các phương tiện truyền thông và những khía cạnh luân lý thích đáng của chúng trong việc chỉ ra một nền văn hóa mới được đặc trưng bởi những cách truyền thông mới với những ngôn ngữ mới, công nghệ mới và tâm lý mới.[36]
8- Hành trình của truyền thông Công giáo tại Việt Nam dưới những hướng dẫn mục vụ của Công đồng Vatican II
Từ những định hướng về truyền thông của Giáo hội, các Giáo hội địa phương bắt đầu triển khai kế hoạch truyền thông tùy vào hoàn cảnh riêng của mỗi quốc gia ngang qua những chiếc lược truyền thông một cách cụ thể và theo bối cảnh của mỗi nhóm, và mỗi tổ chức. Việt Nam là đất nước có chiều dài lịch sử hơn 4000 năm văn hiến và được tiếp cận với nền văn hóa phương Tây từ sớm, do đó, theo nghĩa rộng, truyền thông tại Việt nam có lịch sử phát triển khá lâu đời. Hưởng ứng lời mời gọi của Sắc lệnh Inter Mirifica của Công đồng Vatican II, Giáo hội Việt Nam đã nhận ra những giá trị tốt đẹp mà các phương tiện truyền thông đem lại để phục vụ cho những nhu cầu mục vụ và trong một số lĩnh vực sinh hoạt khác của Giáo hội.
Khởi đầu cho sự phát triển nổi bật trong lĩnh vực truyền thông Công giáo tại Việt Nam phải kể đến sự xuất hiện của Văn học Công giáo chữ Nôm. “Các sản phẩm truyền thông này đã giúp ích rất nhiều cho việc hướng dẫn và củng cố đời sống Đức tin cho người giáo dân thời đó.”[37] Sau đó, sự ra đời của chữ quốc ngữ đã đánh dấu một khởi đầu cho việc phát triển nhanh chóng của nền văn học Việt Nam cùng với những tác phẩm văn chương của cha Đắc Lộ và những vị thừa sai ngoại quốc, tạo nên một cuộc giao thoa về mặt tôn giáo và văn hóa trong lịch sử dân tộc Việt Nam.[38] Vì thế, hệ thống giáo dục của Việt Nam cũng được kế thừa những giá trị về mặt chữ viết và văn chương cho đến ngay này, đặc biệt nhờ những tài liệu được ghi lại bằng chữ quốc ngữ và được lưu trữ trong các thư viện quốc gia, các đại chủng viện, các dòng tu và một số Giáo phận tại Việt Nam.[39] Những tác phẩm văn chương thường được in tại những nhà tin danh tiếng vào thời đó như Tân Định Ấn quán, Nhà in Làng Sông và Nhà in Kim Châu.[40]
Bên cạnh những tác phẩm văn chương, chúng ta phải kể đến những trào lưu nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, giúp phổ biến những thông điệp Tin mừng và đức tin Kitô giáo đến với quần chúng. Những tác phẩm âm nhạc được du nhập từ Châu âu có một chỗ đứng quan trọng trong lĩnh vực truyền thông đại chúng tại Việt Nam. Việc viết lời bài hát dựa trên những tác phẩm âm nhạc nước ngoài rất phổ biến trong những thập niên 60-70, cùng với những tác phẩm thánh ca được sáng tác dựa trên những chất liệu của âm nhạc phương Tây, mang lại một luồng khí âm nhạc theo phong cách mới được trình diễn tại Việt Nam. Thêm vào đó, những tác phẩm âm nhạc mang phong cách dân tộc (âm nhạc ngũ cung) cũng được đưa vào trong thánh nhạc giúp cho kho tàng thánh nhạc của Việt Nam trở nên phong phú hơn. Quan trọng nhất chính là tạo nên một chất liệu cầu nguyện quý giá cho các tín hữu tại Việt Nam để cử hành đời sống phụng vụ một cách sốt sắng và thánh thiện nhất.[41]
Sau biến cố 1975, khi chế độ cộng sản bắt đầu lập chính quyền tại miền Nam của Việt Nam, truyền thông Công giáo bắt đầu gặp nhiều khó khăn và thách đố. Những tác phẩm truyền thông liên quan đến văn hóa và tôn giáo hầu như bị chính quyền Cộng sản tìm cách bài trừ và hủy bỏ. Trong bối cảnh đó, Giáo hội Việt Nam vẫn âm thầm nỗ lực gìn giữ và phát triển nhằm bảo tồn và lưu trữ những tác phẩm nghệ thuật văn chương và văn hóa Kitô giáo trước đây. Các thư viện của các dòng tu và đại chủng viện vẫn cố gắng duy trì việc xuất bản sách ngang qua những phương tiện đã có từ nhiều năm trước. Kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới vào khoảng thập niên 90, các hoạt động truyền thông Công giáo bắt đầu được phục hồi và tìm cách để hòa nhập vào sự phát triển trong lĩnh vực truyền thông của các quốc gia khác.
Sau gần 25 năm, Việt Nam được hòa mình vào Internet toàn cầu, nhờ thế, truyền thông Công giáo cũng đã có sự biến đổi nhanh chóng. Công nghệ thông tin và những phương tiện kỹ thuật số đã dần thay đổi cách thức truyền thông của Giáo hội Việt Nam. Những chiến lược truyền thông mới bắt đầu xuất hiện tại một số Giáo phận chẳng hạn như chương trình sinh hoạt tại các Giáo xứ có thể dễ dàng được phổ biến và chia sẻ với các tín hữu khác, các buổi tọa đàm được ghi hình và lưu trữ trực tuyến trên các nền tảng đám mây giúp độc giả dễ dàng tìm kiếm và theo dõi từ khắp nơi, các thánh lễ có thể được livestream trong những điều kiện hoàn cảnh khó khăn do khoảng cách về địa lý và đại dịch. Ngoài ra, những kho tư liệu Công giáo cũng bắt đầu được cập nhật trực tuyến để tạo thuận lợi cho các tín hữu dễ dàng tìm kiếm và học hỏi cách nhanh chóng. Việc mục vụ của Giáo hội Việt Nam bắt đầu trở nên thuận lợi hơn nhờ những ứng dụng về khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Các Dòng tu, Giáo xứ và các tổ chức tôn giáo dễ dàng trình bày hoạt động cũng như công việc mục vụ đặc trưng của mình thông qua các trang web và mạng xã hội.
Nhìn lại một chặng đường dài về truyền thông Công giáo tại Việt Nam, chúng ta có thể nhận ra rằng, Giáo hội Việt Nam đang nỗ lực để hòa mình vào trong dòng chảy truyền thông xã hội của Giáo hội hoàn vũ. Điều này cho thấy Giáo hội Việt Nam đang mở ra và tiếp nhận tất cả những hướng dẫn của Công đồng Vatican II trong việc hoạch định những chiến lược truyền thông trong thời kỳ đổi mới. Sức mạnh của truyền thông là không thể phủ nhận nhưng những hệ lụy mà nó mang lại cũng gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt đạo đức và luân lý. Chính vì thế, Giáo hội Việt Nam sẽ còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc phân định và sử dụng các phương tiện truyền thông, để có những kế hoạch và sản phẩm truyền thông hiệu quả trong thời gian tới.
9- Kết luận
Nói tóm lại, những bước tiến của việc phát triển của truyền thông xã hội đang cho thấy Giáo hội đã thừa nhận bản chất của mình là truyền thông, và không ngừng tìm cách hoàn thành sứ vụ liên quan đến truyền thông trong lịch sử của Giáo hội. Điều quan trọng của Giáo hội là cần nhìn về cội nguồn của mình nơi Thiên Chúa Ba Ngôi và điểm xuất phát của sứ vụ truyền thông của mình trong Đức Kitô Giêsu. Việc chiêm ngắm Thiên Chúa tự truyền thông chính mình giúp cho Giáo hội có thể hình dung ra được một mô hình truyền thông mẫu mực trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa dựa trên Kinh Thánh và những sứ điệp của Thiên Chúa gửi đến cho dân của Ngài.[42] Cùng lúc đó, Giáo hội không ngừng nỗ lực để trở nên một Giáo hội truyền thông về Thiên Chúa và một Giáo hội có khả năng tự thông truyền chính mình theo gương của Đấng sáng lập của Giáo hội, Đức Giêsu, một nhà truyền thông vĩ đại.
Tiến trình truyền thông của Giáo hội vẫn tiếp tục trong tương lai. Chúng ta sẽ rất khó để dự đoán về những gì sẽ diễn ra theo đà phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và khoa học máy tính. Nhưng niềm hy vọng về sự tươi sáng cho truyền thông của Giáo hội vẫn phải được duy trì cho đến muôn đời vì chúng ta luôn tin tưởng rằng, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Kế hoạch của Thiên Chúa chỉ là một. Kế hoạch cứu độ là kế hoạch truyền thông của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã khai mở kế hoạch đó một cách tốt đẹp thì Ngài cũng sẽ kết thúc nó cũng theo một cách hoàn hảo. Bổn phận của Giáo hội là tiếp nhận và mở ra trước kế hoạch của Thiên Chúa. Sự công nhận những giá trị và thành tựu trong lĩnh vực công nghệ, thông tin và truyền thông của Giáo hội sẽ cho thấy Giáo hội đón nhận những kế hoạch của Thiên Chúa thế nào. Giáo hội càng truyền thông hiệu quả, Giáo hội càng là chính Giáo hội của Đức Kitô.
Lm. Michael Rua
Trần Phạm Hoàng Gia Thi, SDB
__________________
[1] Xem Eilers, Franz-Josef. Communicating in Community. An Introduction to Social Communication. 4. revised edition. Manila: Logos, 2009. tr. 222.
[2] Xem Sđd., tr. 219.
[3] Xem Sđd., tr. 44.
[4] Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. tr. 26.
[5] Eilers, Franz-Josef. Communicating in Community. An Introduction to Social Communication. 4. revised edition. Manila: Logos, 2009. tr. 44.
[6] Xem Sđd., tr. 219.
[7] Sđd., tr. 25.
[8] Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. tr. 22.
[9] Sđd., tr. 26.
[10] Sđd., tr. 27.
[11] Xem. Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. tr. 28.
[12] Xem Sđd.
[13] Xem Sđd., tr. 26.
[14] Vatican II. Gaudium et Spes, số 22.
[15] Eilers, Franz-Josef. Social Communication in Christian Perspective. Trích dẫn từ: http://www.freinademetzcenter.org/pdf/Social%20Communication%20in%20Christian%20Perspective.pdf
[16] Sđd.
[17] Sđd.
[18] Sđd.
[19] Xem Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. tr. 29.
[20] Sđd., tr. 31.
[21] Sđd., tr. 19.
[22] Dulles, Avery. The Craft of Theology: From Symbol to System. Dublin (Gill and Macmillan), 1992. tr. 22.
[23] Eilers, Franz-Josef. Social Communication in Christian Perspective. Trích dẫn từ: http://www.freinademetzcenter.org/pdf/Social%20Communication%20in%20Christian%20Perspective.pdf
[24] Xem Eilers, Franz-Josef. Communicating in Community. An Introduction to Social Communication. 4. revised edition. Manila: Logos, 2009. tr. 67.
[25] Sđd.
[26] Sđd., tr. 69.
[27] Sđd., tr. 72.[28] Eilers, Franz-Josef. Social Communication in Christian Perspective. Trích dẫn từ: http://www.freinademetzcenter.org/pdf/Social%20Communication%20in%20Christian%20Perspective.pdf
[29] Vatican II. Inter Mirifica. số 1.
[30] Eilers, Franz-Josef. Social Communication in Christian Perspective. Trích dẫn từ: http://www.freinademetzcenter.org/pdf/Social%20Communication%20in%20Christian%20Perspective.pdf
[31] Xem Vatican II. Inter Mirifica: Decree on the Media of Social Communications. Trích dẫn từ: https://tgpsaigon.net/bai-viet/inter-mirifica-sac-lenh-ve-cac-phuong-tien-truyen-thong-xa-hoi-63005)
[32] Xem Vatican II. Inter Mirifica. số 37c.
[33] Eilers, Franz-Josef. E-generation: The Communication of Young People in Asia. FABC-OSC, Book (Volume 4). Manila: Logos/Divine Word Publications, 2003. tr. 131.
[34] Pauls VI. Evangelii Nuntiandi. số 45.
[35] Xem Eiler, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. Fourth Updated Edition Manila: Logos, 2018. tr. 248.
[36] Xem Vatican II. Inter Mirifica. số 37c.
[37] Ngọc Lan. Định hướng cho hoạt động Truyền thông Công giáo tại Việt Nam. Trích dẫn từ: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dinh-huong-cho-hoat-dong-truyen-thong-cong-giao-tai-viet-nam-41780
[38] Xem Lê Đình Bảng, Văn học Công Giáo Việt Nam – Những Chặng Đường, Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam số 7 (581), Viện Văn Học tháng 7 năm 2020. tr. 26.
[39] Xem Nguyễn Thanh Tùng, Tiến Trình Thành Lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2010, p. 86-90.
[40] Xem Ngọc Lan, Truyền thông công giáo tại Việt Nam trong 50 năm qua. Trích dẫn từ: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/LichSu/12TruyenThongCG.htm.
[41] Xem Túy Phượng, Tân Nhạc VN- Hàn Mặc Tử & Hải Linh. Trích dẫn từ: https://dotchuoinon.com/2016/04/20/tan-nhac-vn-tho-pho-nhac-ave-maria-han-mac-tu-hai-linh/
[42] Xem Eilers, Franz-Josef. Communicating in Community. An Introduction to Social Communication. 4. revised edition. Manila: Logos, 2009. tr. 35.