Don Bosco kể lại:
Cha đã từng là một cậu nhỏ sống động và ham học hỏi. Cha vẫn nhớ thưở còn nhỏ ở xóm Béc-chi, mỗi khi trong vùng có tổ chức những hội chợ phiên, cha liền xin phép mẹ để được đi tham dự, vì tại đó thường có những màn biểu diễn xiếc và ảo thuật. Cha luôn tìm cách len lên ngồi hàng đầu, mắt dán vào những cử điệu của những tay biểu diễn vốn cố tình làm cho đám khán giả bị chia trí để có thể “qua mặt” họ trong những trò biểu diễn. Thế nhưng dần dần, cha cũng khám phá ra những ngón nghề của họ, rồi khi trở về nhà, cha lại dành nhiều thời gian để tập luyện những trò đó. Ban đầu, thường những trò đó thường chẳng đạt được kết quả mong muốn, chẳng hạn, đâu dễ gì có thể đi đứng thoải mái trên một chiếc dây thừng được cột giữa 2 cây. Nhiều lần cha bị té xuống đất, sưng cả đầu gối, thậm chí nhiêu lần cha đã cảm thấy nản vì cảm thấy phí công vô ích để tập luyện.
Thế rồi cha vẫn kiên trì tập luyện, đổ mồ hôi, mệt mỏi, và cả thất vọng nữa. Nhưng dần dần, cha đã làm được điều cha muốn: đi đứng thoải mái trên dây, và còn sáng chế ra một vài tác động mới nữa. Vì thế, cha muốn nói với các bạn trẻ: “Cứ làm những điều dễ trước, nhưng phải bền bỉ kiên trì.” Cha có kinh nghiệm như thế đấy: một thứ sư phạm rất thực tế, là kết quả của nhiều thắng lợi cũng như cả những thất bại nữa, vì tính cương quyết vốn là một trong những tính chất của cha.
Cũng từ đó, cha có một cách để giáo dục mà chẳng cần dùng tới những “lời đao to, búa lớn”, chẳng cần tới những kế hoạch lý thuyết to lớn gì cả, cũng chẳng cần phải quy chiếu tới những tác giả nổi tiếng. Lối sư phạm của cha đã ra đời từ những gì cha học được ở nơi đồng cỏ của xóm Béc-chi, và sau này trên các đường phố của Chieri, trong các nhà tù, ngoài phố xá, và tại Valdocco.
Vài năm sau, khi đến Chieri để ở trọ và tiếp tục học, cha đã dám chứng minh điều này. Trước mặt cả lớp học, vị giáo sư đã đón tiếp cha với một câu nói chẳng hứng thú là bao: “Chàng trai này, hoặc là một con chuột chũi to xác, hoặc là một tài năng lớn đấy”. Câu nói này làm cha sượng vô cùng, thế nhưng cha vẫn còn nhớ như in những lời cha đáp trả: “Thày nói hơi quá, thưa thày. Con chỉ là một cậu thiếu niên nghèo muốn chu toàn những bổn phận của mình và muốn được thăng tiến trong việc học hành thôi”.
Thế rồi, giấc mơ kỳ lạ năm cha lên 9 tuổi đã lập lại nhiều lần, và cũng từ đó cha nuôi giấc mộng muốn trở thành linh mục. Giấc mộng này càng lúc càng mạnh mẽ nơi cha… nên cha đành phải chìa tay xin giúp đỡ để có thể thực hiện được giấc mộng. Sau này, cha đã tâm sự với một tu sĩ Sa-lê-diêng: “Con chẳng biết được việc chìa tay xin giúp đỡ này đã đòi cha phải trả giá thế nào đâu.” Thực vậy, với tính khí tự cao, cha chẳng dễ gì biết khiêm tốn để xin sự giúp đỡ. Nhưng cha đã biết đặt niềm tin tưởng phó thác vào Chúa Quan Phòng, và điều này cha đã học từ nơi người mẹ của cha. Tại trường học của bà, cha đã học được một quy tắc điều hướng cha mọi nơi mọi lúc: “Bất cứ khi nào gặp phải điều khó khăn, phải luôn tìm cách để khắc phục những gì cản đường phía trước. Nếu không thể loại bỏ những điều đó đi, thì hãy tập biết né tránh để đi vòng qua chúng”.
Cha xác quyết với con rằng: cha đã gặp biết bao trở ngại lớn trên con đường cha đi. Cha chỉ đưa ra một vài sự kiện thôi: năm 1860 quả là một năm quá khó khăn. Cha Cafasso, người bạn thân thiết, cha giải tội, và vị linh hướng của cha đã qua đời. Cha đã mất đi sự hiện diện của ngài, những lời chỉ bảo khôn ngoan của ngài, và cả những sự trợ giúp của ngài về tài chánh nữa.
Về phía chính quyền, cha cũng gặp những khó khăn nghiêm trọng. Đúng là “những tảng đá” cản đường thực sự: nào là những cuộc khám xét nhà với mục đích gây khó khăn cho Nguyện xá Valdocco, như thể cha là một tội nhân! Các học sinh của cha sống trong tâm trạng sợ sệt, trong khi những lính gác thì vào nhà sục sạo mọi nơi. Những cuộc khám xét vẫn cứ tiếp diễn, tạo nên một bầu khi sợ sệt và lo lắng. Cha đã phải viết thư cho ông Bộ Trưởng Nội Vụ Lui Farini để xin có một cuộc hẹn, qua đó thẳng thắn trình bày với ông ta trong sự khiêm tốn và xác quyết rằng: “Vì các học sinh của tôi, tôi muốn đòi lại sự công bằng và phục hồi danh dự để chúng không bị thiếu bánh ăn”. Cha biết ông ta đã liều lĩnh thực sự vì họ thuộc về một chính phủ chống lại hàng giáo sĩ. Dù sao, cha cũng không thiếu sự can đảm cần thiết, nên dần dần, những cuộc khám xét cũng phải chấm dứt.
Cha chẳng bao giờ lui bước cả, và thường nói với các học sinh: “Sự can đảm của kẻ xấu thì chẳng làm cho người khác sợ sệt. Các con cứ kiên cường và sẽ thấy họ cụp cánh lại.” Một vị ân nhân người Pháp ở Lyon đã gởi cho cha một tấm ảnh thánh trên đó ghi một câu mà cha chẳng bao giờ quên, vì câu đó như một kim chỉ nam cho cha: “Hãy nép mình bên Chúa như con chim sẻ dù cảm thấy cành cây nó đậu bị rung lên, nhưng nó vẫn tiếp tục hót, vì biết rằng nó có được đôi cánh”. Câu này chẳng phải là một ý thơ, nhưng là một hành vi tín thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa, vì chỉ mình Người “là chủ của mọi cõi lòng”.
Khi các học sinh của cha sửa soạn đi nghỉ hè, cha thường nói với chúng câu nói này: “Hãy mạnh mẽ, luôn ngẩng cao đầu và tiến bước trong sự phục vụ Thiên Chúa, ở trong gia đình và ngoài xã hội, trong nhà thờ hay tại quảng trường. Sự tôn trong của con người là gì? Chỉ là một thứ hổ giấy chẳng biết cắn. Những lời xấc láo của những kẻ xấu là gì? Chỉ như bọt xà bông sẽ mau tan biến thôi. Chúng ta không thể cứu chữa những kẻ địch thù và những lời chế nhạo của họ. Hãy luôn nhớ rằng tri thức và không có lương tâm thì chỉ đưa tới sự tàn lụi của linh hồn.”
Cha không hề biết mệt mỏi khi nói với các học sinh rằng: “Hãy luôn tôn vinh Thiên Chúa bằng chính cuộc sống tốt lành, hãy làm cho các bậc cha mẹ và các bề trên an lòng. Trái lại, một “đứa trẻ lười và vô kỷ luật” sẽ là một đứa trẻ vô ơn, là một gánh nặng cho cha mẹ, cho các bề trên và cho cả bản thân của nó nữa”.
Valdocco sẽ có một tương lai tươi sáng, sẽ đào tạo cho thế giới “những công dân tốt lành và những Kitô hữu ngay thẳng”.
Sưu tầm