“Chỉ cần các con còn trẻ, đủ để cha hết lòng yêu mến các con.”

CĂN TÍNH VÀ SỨ MỆNH NGƯỜI SƯ HUYNH TRONG GIÁO HỘI

DẪN NHẬP

Sư Huynh

1. Ngay từ trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, đời sống thánh hiến phần đa là do các thành viên giáo dân đảm nhận như là cách diễn tả niềm khao khát của những người nam người nữ ao ước sống Phúc Âm với mức tận căn được đề xuất cho mọi người theo Chúa Giêsu. Ngay cả hôm nay, các thành viên đời trong đời sống thánh hiến nam và nữ cũng là thành phần đa số.

“Sư Huynh” là tên gọi truyền thống dành cho những tu sĩ giáo dân nam[1] trong Giáo Hội kể từ buổi đầu của đời sống thánh hiến. Lẽ dĩ nhiên, danh hiệu này không chỉ thuộc về sư huynh mà thôi, song nó biểu thị một lối hiện hữu có ý nghĩa trong cộng đoàn Giáo Hội theo đó thày là ký ức sống động về Đức Giêsu, người Anh, người đã truyền cho các môn đệ của mình ”và tất cả các ngươi đều là anh em” (Mt 23,8).

Lời này của Đức Giêsu được Mathêu truyền lại trong bối cảnh Đức Giêsu bài bác tính giả hình của những ai sử dụng tôn giáo để mưu cầu đặc lợi và danh giá trước con mắt người khác. Song giá trị của lời dạy này còn đi vượt quá bối cảnh trực tiếp ấy. Tước hiệu (sư) huynh nhấn mạnh phẩm giá chung và sự bình đẳng căn bản của mọi tín hữu. Sư huynh là người con trong Chúa Con của cùng một Cha trên rời (x. Mat 5, 45), được mời gọi hình thành nên một tình huynh đệ phổ quát trong Chúa Kitô, người Anh Cả của nhiều anh [chị] em (x. Roma 8, 29).[2]

Dẫu trong Huấn thị này chúng ta nói trực tiếp đến đời sống và sứ mệnh của các Sư Huynh, chúng ta ghi nhận rằng nhiều điểm được bàn luận ở đây, như việc thông dự vào mầu nhiệm hiệp thông, tình huynh đệ trong Giáo Hội, hay vai trò ngôn sứ làm chứng và phục vụ, được áp dụng cho cả đời sống và sứ mệnh của các Sư Huynh cũng như của những chị em sống đời thánh hiến.

Sư Huynh hay Nữ Tu, qua việc tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô và Giáo Hội, là những lời nhắc nhở trường tồn cho toàn thể dân Kitô hữu về tầm quan trọng của việc hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa và là lời nhắc nhở rằng sứ mệnh của Giáo Hội, tuy vẫn tôn trọng các ơn gọi và tác vụ khác nhau trong đó, chỉ có một mà thôi và đều được mọi người chia sẻ. Tuy nhiên, chúng ta nhìn nhận rằng ơn gọi Sư Huynh và Nữ Tu thì không luôn luôn được hiểu rõ và trân trọng trong Giáo Hội.

Suy tư này muốn góp phần vào việc trân quý sự phong phú của các ơn gọi khác nhau, cách riêng trong đời sống thánh hiến nam, và tìm cách soi sáng căn tính của các Sư Huynh và giá trị cũng như sự cần thiết của ơn gọi này.

Văn kiện này nhắm đến ai?

2. Sư Huynh hay tu sĩ mang tính giáo dân [lay] làm nên một phần năm các tu sĩ nam trong Giáo Hội. Một số thuộc về các hội dòng giáo sĩ; số khác thuộc về những hội dòng hỗn hợp. Số khác hội nhập vào những hội dòng mang tính giáo dân, cũng như các Hội Dòng gọi là Dòng Sư Huynh,[3] với các thành viên tất cả hay hầu hết là Tu sĩ mang tính giáo dân. Suy tư này hướng đến tất cả những anh em đó, hy vọng rằng sẽ giúp củng cố anh em trong ơn gọi của mình.

Do sự giống nhau giữa ơn gọi tu sĩ nữ và ơn gọi Sư Huynh, những gì nói ở đây cũng sẵn sàng áp dụng cho các Nữ Tu.

Văn kiện này cũng hướng đến giáo dân, các tu sĩ linh mục, các linh mục giáo phận, các giám mục và tất cả những ai muốn biết, trân trọng và cổ võ ơn gọi Sư Huynh trong Giáo Hội.

3. Tông Huấn Vita Consecrata của Đức Gioan Phaolo II được dùng làm khung quy chiếu cho suy tư chuyên biệt của chúng ta đây về người Sư Huynh, và chúng ta quy chiếu về tông huấn này tất cả những nét chung làm nên căn tính của đời sống thánh hiến. Chúng ta nhắm đề xuất ở đây chỉ những gì chuyên biệt hay đặc thù cho ơn gọi này, dẫu rằng không thể nào tránh được việc phải quy chiếu đến đời sống thánh hiến nói chung, cũng như quy chiếu đến những văn kiện kể từ Vatican II đã trình bày trong nền giáo hội học hiệp thông.[4]

Nhiều đặc tính trước đây được coi như là chuyên biệt và ngay cả là dành riêng cho đời sống thánh hiến ngày nay được coi như thuộc về kho tàng chung của Giáo Hội và được đề xuất cho mọi tín hữu. Tu sĩ ngày nay được thách đố nhận ra bản thân mình trong những gì, tuy được coi là chung, song lại sống trong một lối sống đặc thù để rồi lối sống ấy trở thành một dấu chỉ cho mọi người.

Dàn bài văn kiện này

4. Trước tiên, chúng ta sẽ giới thiệu Người Sư Huynh trong Giáo Hội-Hiệp Thông, như là thành phần của Dân Được Tuyển Chọn, trong đó mỗi người được mời gọi tỏa chiếu sự phong phú của ơn gọi đặc thù này.

Và rồi theo như ba chiều kích trong đó Giáo Hội-Hiệp Thông được trình bày,[5] chúng ta sẽ khai triển căn tính của người Sư Huynh như là mầu nhiệm hiệp thông vì sứ mệnh. Trung tâm căn tính của người Sư Huynh nằm nơi cái nhìn ba chiều kích này, tức là bậc sống Sư Huynh, là hồng ân được lãnh nhận (mầu nhiệm), hồng ân được  chia sẻ (hiệp thông) và hồng ân được trao ban (sứ mệnh).

Sau cùng, chúng tôi đề xuất một vài đường hướng để rồi ở mọi nơi trên thế giới, trong mỗi cộng đoàn, từng anh em Sư Huynh có thể đáp trả câu hỏi này: Chúng ta có thể là Sư Huynh như thế nào trong ngày hôm nay? 

I. SƯ HUYNH TRONG GIÁO HỘI-HIỆP THÔNG

“Ta đã chọn ngươi làm giao ước cho muôn dân” (Is 42,6)

Mang lại diện mạo cho giao ước 

5. Cuộc canh tân do Công Đồng Vatican II mang lại qua những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần Lễ Hiện Xuống, đã soi sáng cho Giáo Hội hiểu được cốt lõi của chính sự hiện hữu của mình, được tỏ lộ như mầu nhiệm hiệp thông. [6] Mầu nhiệm đó là kế hoạch Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại [7], được triển khai ra thành câu truyện về giao ước.

Vì thế, cội nguồn của mầu nhiệm này không nằm trong chính Giáo Hội, nhưng trong Chúa Ba Ngôi, trong sự hiệp thông của Chúa Con với Chúa Cha và trong ân ban của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông này là mô hình, cội nguồn đích điểm của sự hiệp thông mọi Kitô hữu với Chúa Kitô; và từ đó sinh thành sự hiệp thông giữa chính những Kitô hữu.[8]

Nằm ở chính trung tâm của Giáo Hội, đời sống thánh hiến là yếu tố then chốt cho sứ mệnh của Giáo Hội,[9] và phải được nhìn vào trung tâm đó để khám phá và hiểu chính mình. Người Sư Huynh tìm thấy ở đó ý nghĩa sâu xa của ơn gọi mình. Khi chiêm ngắm như thế, thày được soi dẫn qua hình ảnh của Người Tôi Tớ của Đức Chúa mà Isaia đã miêu tả, người được Thiên Chúa phán: “Ta đã làm người nên giao ước với dân” (Is 42, 6). Dung mạo này được phản ánh hoàn hảo nơi Đức Giêsu Nagiaret, đấng đã đóng ấn giao ước mới bằng máu của mình và đã kêu gọi những ai tin vào ngài hãy tiếp tục nhiệm vụ được ủy thác cho người tôi tớ, là giao ước với dân.

Căn tính làm trung gian của Người Tôi Tớ Đức Chúa có một tầm ý nghĩa mang tính cá vị cũng như là tính hiệp thông, vì nó liên quan tới số sót của Israel, dân Thiên Sai, mà Công Đồng nói rằng đã “được Chúa Kitô thiết lập như là sự hiệp thông đời sống, đức ái và chân lý, và cũng được ngài sử dụng như là khí cụ để cứu chuộc mọi người, và được sai đi trên toàn thế giới như là ánh sáng cho thế gian và là muối cho đời (x. Mt 5, 13-16).[10]

Là thành phần của dân và sứ mệnh của dân, người Sư Huynh sống ơn gọi là lời nhắc nhớ về giao ước qua sự thánh hiến cho Thiên Chúa trong đời sống huynh đệ của một cộng đoàn hướng đến sứ mệnh.[11] Như thế, thày làm cho sự hiệp thông mà toàn bộ Dân Thiên Chúa được mời gọi nhập thể được nên hữu hình hơn. 

Hiệp thông với Dân Thiên Chúa 

6. Được Chúa Thánh Thần khích lệ, Giáo Hội ngày nay đào sâu ý thức về mình là Dân Thiên Chúa, trong đó, mọi người đều có phẩm giá bình đẳng lãnh nhận trong Phép Thánh Tẩy,[12] tất cả đều có cùng một ơn gọi chung là nên thánh, [13] và tất cả cùng chia sẻ trách nhiệm rao giảng Tin Mừng.[14] Tùy theo ơn gọi, đặc sủng và sứ vụ của mình, mỗi người trở thành dấu chỉ cho mọi người khác.[15] Đời sống tu sĩ được sinh thành và hội nhập vào trong dân được thánh hiến này, và trong đó, đời sống tu sĩ mang chiều kích trần thế, với một sự thánh hiến mới đặc biệt, phát huy và đào sâu sự thánh hiến phép Thánh Tẩy.[16] Theo một hình thái đặc biệt, người tu sĩ mang chiều kích trần thế thông dự vào “nhiệm vụ ngôn sứ của Chúa Kitô mà Chúa Thánh Thần đã thông ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa”[17]; đời sống đó sống đoàn sủng đặc thù của mình trong tương quan và tiếp nối với những đặc sủng khác của Giáo Hội và hội nhập mình vào trong sứ mệnh của Giáo Hội vốn được các tín hữu khác đồng chia sẻ.

Các Sư Huynh tìm thấy môi sinh tự nhiên của mình trong bối cảnh hiệp thông, bằng cách thuộc về Dân Thiên Chúa, và họ cũng được kết hiệp với tất cả những ai, qua sự thánh hiến tu trì, phản ánh yếu tính của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông. Trong đó, họ duy trì thật sống động bổn phận làm huynh đệ của nhau như là lời tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.[18]

Các mối dây hiệp thông của người Sư Huynh vượt quá các biên cương của Giáo Hội, vì họ được thôi thúc bởi cùng một “tính cách phổ quát vốn làm cho Dân Thiên Chúa nổi bật”.[19] Ơn gọi của Sư Huynh là một phần câu trả lời Thiên Chúa ban cho trước sự thiếu vắng tình anh em vốn đang làm thương tổn thế giới ngày hôm nay. Cội rễ ơn gọi của Sư Huynh là kinh nghiệm thâm sâu về tình liên đới mà cách cốt yếu đã làm cháy bừng lên kinh nghiệm của Mô-sê trước bụi gai cháy lửa: ông đã khám phá mình trở thành con mắt, lỗ tai và trái tim của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa thấy dân Ngài bị áp bức, nghe được tiếng khóc than của họ, cảm được nỗi uất hận và đi xuống để giải phóng dân. Trong kinh nghiệm thiết thân này, người Sư Huynh nghe được tiếng mời gọi: “Hãy đến, Ta sai ngươi đến Vua Pharao để đem dân Ta ra khỏi Ai Cập” (Xh, 3, 7-10). Vì thế, chiều kích hiệp thông liên kết chặt chẽ người Sư Huynh với một cảm thức nhạy bén về tất cả những gì ảnh hưởng đến những người bất hạnh nhất trong dân; những người bị áp bước dưới những hình thức khác nhau, bị bỏ qua bên lề lịch sử và sự tiến bộ, những người khó có được kinh nghiệm về tin mừng Thiên Chúa yêu thương trong cuộc đời của họ. 

Tưởng niệm sống động về ý thức của Giáo Hội

7. Tác vụ đầu tiên những anh em Sư Huynh triển khai trong Giáo Hội như là tu sĩ là “gợi nhắc người được rửa tội về những giá trị căn bản của Tin Mừng” và “nhu cầu cần phải đáp trả với đời sống thánh thiện tình yêu Thiên Chúa đổ đầy lòng chúng ta bởi Chúa Thánh Thần (x. Rm 5, 5).[20] Mọi việc phục vụ và tác vụ khác được những hình thái đời sống thánh hiến cống hiến chỉ có ý nghĩa khi được cắm rễ trong tác vụ tiên quyết này.

Là dấu chỉ, mục đích này được Công Đồng Vatican II nhìn nhận[21] và liên tục được nhấn mạnh trong Tông Huấn Vita Consecrata[22] quả là cốt thiết trong đời sống thánh hiến và xác định chiều hướng của đời sống này: đời sống tu sĩ không hiện hữu “cho chính mình” nhưng là một phần của cộng đoàn Giáo Hội.

Sự thánh hiến tu sĩ tự mình biểu thị đời sống như là lời chứng về Thiên Chúa tuyệt đối,[23] và cũng như là tiến trình mở ra cho Thiên Chúa và con người trong ánh sáng Tin Mừng, là lời kêu gọi mọi tín hữu, lời mời gọi mỗi người định hướng cuộc đời mình sống theo con đường triệt để, trong những hoàn cảnh và bậc sống khác nhau, mở lòng đón nhận những hồng ân và lời mời gọi của Chúa Thánh Thần.[24]

Bậc sống huynh/đệ của các anh em Sư Huynh là lời khích lệ cho toàn thể Giáo Hội, bởi lẽ nó làm cho giá trị Tin Mừng về mối tương quan huynh đệ bình đẳng được hiện diện đối lại với cám dỗ thống trị, tìm những chỗ tốt nhất hoặc thực thi quyền bính như là quyền hành: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 8-10).

Ngày nay, tình hiệp thông được Giáo Hội đề xuất như là một thách đố đặc biệt đầy sức ép trong thiên niên kỷ mới đây, để Giáo Hội được biến cải thành mái nhà và trường học dạy hiệp thông.[25] Các anh em Sư Huynh là những thành viên sống tích cực trong gia đình này và anh em vừa là học viên vừa là thày dậy; đó là lý do tại sao anh em đảm nhận cho mình một cách thật cấp thiết điều Giáo Hội đề xuất, sống và cổ võ một linh đạo hiệp thông. [26] 

Tái khám phá kho tàng chung

8. Tương quan trong Giáo Hội-Hiệp Thông được thiết lập từ những gì hiệp nhất hơn là những gì phân rẽ. Ngày nay, chúng ta một lần nữa ý thức về gia sản chung của chúng ta. Đó là cả một kho tàng vĩ đại làm cho chúng ta về nền tảng là bình đẳng, có chung một phẩm giá và cùng chung những quyền và bổn phận. Tất cả chúng ta đều được sinh ra trong đức tin và chúng ta gia nhập Giáo Hội như là dân được chịu phép Thánh Tẩy. Trong khuôn khổ chung này, chúng ta được mời gọi chu toàn một số bổn phận để phục vụ cộng đoàn Giáo Hội, sống một số đặc tính thuộc về gia sản chung một cách thật ý nghĩa hoặc có tính ngôn sứ, và phục vụ sứ mệnh chung qua những đặc sủng và tác vụ cụ thể.

Chiều kích căn bản này không bao giờ xa rời chúng ta: Kitô hữu giáo dân sống gia sản đó trong một cách thức minh nhiên là trần thế. Đối với những ai được mời gọi sống đời linh mục hoặc thánh hiến, người giáo dân là điểm quy chiếu thường hằng nhắc nhở họ rằng họ là dấu chỉ sự thánh hiến cho giáo dân và cùng với giáo dân, họ thực thi tác vụ của mình.

Người Sư Huynh, khi được cắm rễ trong dân Kitô hữu, đón nhận chứng tá và sự nâng đỡ từ các ơn gọi khác. Thày được gọi sống một cách trọn vẹn và ngôn sứ mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội trong đời sống thánh hiến, như là một sự phục vụ cho toàn Dân Thiên Chúa.[27] 

Một dự phóng được canh tân 

9. Từ buổi đầu, đời sống thánh hiến chủ yếu là từ giáo dân, họ đề xuất một mục đích căn bản là vun trồng kho tàng chung của Kitô giáo, được chứa đựng và ban cho mọi tín hữu trong các bí tích khai tâm. Chắc chắn đời sống này hoàn thành việc đó một cách đặc biệt, tìm cách sống mật thiết với Chúa Kitô qua lối sống: thanh khiết, nghèo khó và vâng phục.[28]

Qua giòng thế kỷ, mục đích rất thiết yếu đối với đời sống thánh hiến này có nguy cơ xuống hàng thứ yếu trong đời sống tu sĩ nam, [khi] phận vụ linh mục được ưa chuộng hơn. Để trả đời sống này trở lại vị trí thích đáng của mình, qua giòng lịch sử, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy những đấng lập dòng nhấn mạnh đến tính cách giáo dân của các dòng của mình. Việc đó đã xảy ra trong đời sống đan viện của Thánh Biển Đức, các Thày của ngài là những người phúc âm hóa Âu Châu; cũng như thế trong lối sống Thánh Phanxico đề xuất, các Thày được sinh thành trong một Dòng Tu hỗn hợp, bao gồm cả tu sĩ giáo dân và tu sĩ linh mục. Trong cả hai trường hợp này, khuynh hướng thiên về linh mục sau đó đã áp đặt trên dự án thành lập ban đầu.

Trong thế kỷ 16 và 17, các vị sáng lập dòng mới lại làm sống lại dự án đời sống Sư Huynh ấy, lần này triển khai trong những cộng đoàn, ngoài việc đem lại một chỗ đứng đặc biệt cho mối tương quan huynh đệ giữa các thành viên, đã xác định họ với và được thành hình bởi các như cầu xã hội họ nhắm đáp trả. Các vị đặt các nhà của mình ở nơi hoặc gần với những hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn hoặc yếu kém để họ có thể rao giảng tin mừng; và khi làm như thế, từ bên trong, các vị đang nhập thể và làm cho tình yêu cứu độ của Chúa được hiển hiện. Những huynh đoàn thánh hiến này khơi dậy các Hội Dòng Sư Huynh và Nữ Tu. Thánh Gioan Thánh Giá và Thánh Gioan Tẩy Giả de la Salle, cũng như bên nữ có Thánh Angela Medici và Mary Ward, trong những vị khác, là khí cụ của Chúa Thánh Thần, đưa vào trong Giáo Hội những đoàn sủng thành lập mới, để rồi được nhân bội lên cách riêng trong thế kỷ 19.

Các anh em Sư Huynh, hoặc trong các cộng đoàn đan viện, cộng đoàn sống đời tông đồ hoặc các huynh đoàn như vừa được miêu tả, đã nhấn mạnh tới phẩm giá của sự phục vụ và các tác vụ liên quan tới các nhu cầu đa diện của con người. Các vị thực thi những tác vụ này từ sự hiệp nhất đời thánh hiến, làm cho các tác vụ ấy trở thành trung tâm kinh nghiệm được Thiên Chúa và thực thi các tác vụ đó với phẩm chất và khả năng chuyên môn. 

Phát triển kho tàng chung

10. Bối cảnh đương thời của Giáo Hội-Hiệp Thông trợ giúp cũng như đòi hỏi hơn bao giờ hết rằng các anh em Sư Huynh tái khẳng định, với một sinh lực được canh tân, mục đích nguyên thủy của đời sống thánh hiến, không phải chỉ trong các cộng đoàn của mình, nhưng còn trong toàn thể cộng đoàn Giáo Hội. Các anh em như là men trong bột, là chuyên gia hướng dẫn đời sống thiêng liêng, [29]trong tình anh em, đồng hành các tín hữu khác và giúp họ khám phá truyền thống Kitô giáo phong phú, hoặc chỉ như người Anh Em chia sẻ kinh nghiệm bản thân với những anh em khác để mưu ích cho nhau. Chúng ta hãy làm nổi bật một số khía cạnh của gia sản chung này mà các anh em Sư Huynh nỗ lực phát triển:

  • Đời sống bí tích. Thánh hiến tu sĩ cắm rễ vững chắc trong Phép Thánh Tẩy và những bí tích khai tâm khác. Từ các bí tích này, người Sư Huynh kinh nghiệm sự thôi thúc của con thảo hướng đến Chúa Cha, cử hành sự sống mới mà thày đã lãnh nhận từ Chúa Phục Sinh, coi mình như là một phần của Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục, Ngôn Sứ và Vị Vua, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
  • Thuộc về Dân Thiên Chúa. Người Sư Huynh khẳng định mình thuộc về cộng đoàn tín hữu, mong muốn tháp nhập vào Giáo Hội địa phương và vào những cơ cấu hiệp thông và tông đồ, tùy theo đoàn sủng của mình. Thày cũng khẳng định mình thuộc về toàn thể nhân loại, liên đới với tất cả nhu cầu của họ, cách riêng với những thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương hơn: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của những con người thời đại, cách riêng những người nghèo khó và đau khổ bằng bất kỳ cách nào, . . . không có gì đích thực của con người lại không khơi dậy tiếng vọng trong cõi lòng của các anh em Sư Huynh.”[30]
  • Hòa nhập căn tính giáo dân và thánh hiến nơi bản thân. Người Sư Huynh kết hiệp cả hai khía cạnh này nơi bản thân mình. Như thế, thày duy trì sự hiệp nhất giữa trần thế và linh thánh, một sự hiệp nhất ngày càng hiển nhiên hơn vì Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người.
  • Dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện trong các thực tại trần thế. Người Sư Huynh đảm nhận những tác vụ Giáo Hội với các Sư Huynh mình trong cộng đoàn, với những thành viên khác trong dòng và với những tín hữu khác tham dự vào cùng một đoàn sủng hội dòng. Như thế, thày tìm kiếm và chỉ đến Thiên Chúa trong những thực tại trần thế như văn hóa, khoa học, y tế, sở làm, và việc chăm sóc người yếu đau và bất hạnh. Tương tự như thế, thày tìm kiếm và chỉ ra cho con người, nam lẫn nữ, “toàn bộ cả hồn lẫn xác, trái tim và lương tâm, trí tuệ và ý chí”, xác tín rằng “con người đáng được bảo vệ, xã hội đáng được đổi mới.”[31]
  • Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Người Sư Huynh đào sâu sự hiệp thông huynh đệ trong đời sống chung và tác vụ như là cách thức hiện hữu của mình trong mối tương quan bên ngoài cộng đoàn. Được kinh nghiệm cốt lõi ơn gọi mình nâng đỡ, tức kinh nghiệm giữa mình và Đức Giêsu như là người Con yêu dấu của Chúa Cha, thày sống giới răn mới của Chúa như là trung tâm cuộc đời mình và như là quyết tâm đầu tiên của ơn gọi tu trì của mình.
  • Tham dự đoàn sủng. Người Sư Huynh ý thức đến sự giàu có được chứa đựng trong đoàn sủng căn bản của mình và thày chia sẻ với những tín hữu giáo dân khác là những người có thể sống đoàn sủng đó theo một lối sống khác.[32] Thày chấp nhận mình là khí cụ của Chúa Thánh Thần để truyền giao đoàn sủng và chịu trách nhiệm là ký ức sống động về đấng sáng lập. Như thế, đoàn sủng giữ được sự phong phú của Tin Mừng để xây dựng Giáo Hội, thiện ích của dân và đáp trả nhu cầu của thế giới.[33]

Trong khi phát triển kho tàng chung ấy, người Sư Huynh ý thức mình là người anh em trong Dân Kitô giáo và lắng nghe nơi bản thân mình tiếng Chúa kêu gọi những ai phục vụ ngài, “Ta đã chọn ngươi để làm giao ước với chư dân”(Is 42, 6). Lời kêu gọi này đem lại ý nghĩa cho tất cả mọi sự thày sống và làm, biến cải thày và làm cho thày trở thành ngôn sứ giữa các Anh Em của mình, và nhờ đó, thày sống sự thánh hiến của mình trong một cộng đoàn truyền giáo và rao giảng Tin Mừng. 

Sư Huynh: Một Kinh nghiệm từ ban đầu của Kitô giáo

11. “Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đoàn trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rạng ngời và đầy hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ. Hãy để mọi người ca ngợi anh em đã chăm sóc nhau ra sao, và đã khuyến khích và đồng hành với nhau ra sao. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ thày khi anh em yêu thương nhau” (Ga 13, 35).[34] Lời Đức Thánh Cha Phanxico khẩn xin toàn dân Kitô hữu làm nổi bật vị thế đặc biệt của tình anh em trong toàn bộ gia sản Kitô hữu được chia sẻ cho nhau. Đó là viên ngọc quý mà anh em Sư Huynh hết lòng vun trồng. Như thế, anh em Sư Huynh trở thành lời nhắc nhớ mang tính ngôn sứ cho cộng đoàn Giáo Hội về cội nguồn và sự khích lệ trở về cội nguồn ấy của mình.

Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày Giáo Hội sơ khai như là cộng đoàn các môn đệ có sứ mệnh loan báo ơn cứu độ và làm chứng cho Đấng Phục Sinh, và sức mạnh của họ được tìm thấy trong Lời, trong Lễ Bẻ Bánh, cầu nguyện và là anh chị em của nhau. Các môn đệ là anh em của nhau; đây là dấu chỉ cho thấy họ là môn đệ của Đức Giêsu. Nhưng họ là anh em không phải do bản thân họ chọn lựa cho bằng bởi vì họ đã được kêu gọi. Họ quy tụ lại với nhau trước khi được sai đi cho sứ mệnh.

Tình huynh đệ là nguồn sức lực cho sứ mệnh, nhưng nó lại dựa trên một sức mạnh khác: Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các anh em quy tụ lại với nhau trong ngày Lễ Hiện Xuống và sai họ ra đi làm chứng nhân (CV 2, 1 tt). Các anh em quy tụ lại, nâng đỡ nhau sau khi Phêrô và Gioan bị bắt và được thả, và Chúa Thánh Thần lại ngự xuống, đổ tràn trên họ sức mạnh để họ can đảm rao giảng Lời Chúa (Cv 4, 23 tt). Câu truyện trong sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy được cộng đoàn các môn đệ ngày càng ý thức hơn là tình huynh đệ sứ mệnh đòi hỏi lẫn nhau, và cả hai được sự thúc đẩy hoặc yêu sách của Chúa Thánh Thần phát triển. Đấy là sức năng động đã được thiết lập: việc vun trồng tình huynh đệ tạo nên một ý thức mạnh mẽ hơn về sứ mệnh, và việc khai triển sứ mệnh tạo nên tình huynh đệ.

Với nỗ lực mới, Chúa Thánh Thần củng cố và canh tân sứ điệp đó trong Giáo Hội, cách riêng trong đời sống thánh hiến. Bởi lý do đó, Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng sự hiện diện của các Sư Huynh trong các hội dòng giáo sĩ. Sự hiện diện của các anh em này là quan trọng, không chỉ do sự đóng góp của họ khi họ đáp trả những nhu cầu vật chất và các nhu cầu khác, nhưng trên hết là vì trong những hội dòng này, các Sư Huynh là lời nhắc nhở thường hằng về “chiều kích căn bản là tình huynh đệ trong Chúa Kitô”,[35] mà mọi thành viên phải củng cố. Bởi đó, Chúa Thánh Thần cũng nuôi dưỡng các Hội Dòng Sư Huynh, cùng với các Dòng Nữ. Tất cả những dòng này liên lỉ gợi lên trong Giáo Hội những giá trị tối thượng về tình huynh đệ, lòng thong dong quảng đại vô bờ bến như là cách thức trổi bật diễn tả tình hiệp thông.

Danh xưng (Thày) “Sư Huynh”  tích cực chỉ đến điều mà các Tu Sĩ này đảm nhận như là sứ mệnh nền tảng trong cuộc đời của họ: “Những Tu sĩ này được mời gọi trở thành người anh em [huynh đệ] của Chúa Kitô, hiệp nhất sâu xa với ngài, “vị Trưởng Tử giữa nhiều anh em” (Rm 8, 29); là anh em cho nhau trong tình yêu hỗ tương và cùng nhau làm việc trong Giáo Hội trong cùng một việc phục vụ những gì thiện hảo; là anh em cho hết mọi người   trong chứng tá về tình yêu của Chúa Kitô dành cho mọi người, cách riêng những người thấp hèn, thiếu thốn nhất; làm anh em nhau vì một tình huynh đệ vĩ đại trong Giáo Hội.”[36]

II. CĂN TÍNH SƯ HUYNH: MẦU HIỆP THÔNG CHO SỨ MỆNH

Nhớ đến tình yêu của Chúa Kitô: “Anh em cũng phải làm như thế…“ (Ga 13,14-15)

12. Để hiểu biết sâu xa hơn căn tính của người Sư Huynh, chúng ta hãy để mình được soi sáng khi chúng ta chiêm ngắm một trong những biểu tượng rất đánh động trong bốn sách Tin Mừng: Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ.

Câu truyện mà Thánh Sử Gioan cống hiến cho chúng ta về bữa ăn vào Thứ Năm Tuần Thánh khởi đầu bằng quả quyết long trọng và đầy tình thân ái như sau: “Đức Giêsu… đã yêu  thương những người của ngài còn đang ở trong thế gian, ngài đã yêu thương họ cho đến cùng” (Ga 13, 1). Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu với các môn đệ ngài diễn ra trong bối cảnh sai đi cho sứ mệnh: Đức Giêsu thúc giục các môn đệ, và qua các vị, thúc giục toàn thể Giáo Hội hãy tiếp tục tác vụ cứu rỗi vốn đạt tới tột đỉnh nơi cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, dẫu rằng ngài đã khai triển tác vụ này trong cuộc đời, như được phản ảnh trong câu ngài trả lời cho các môn đệ của Gioan, “Hãy trở lại và nói cho Gioan biết những gì anh em đã thấy và đã nghe: người mù được thấy lại, người què đi được, người phong cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết sống lại và tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Lc 7, 22).

Như vậy, Giáo Hội đã kinh nghiệm rằng mình được hình thành như là một dân có tác vụ được Đức Giêsu ủy thác. Các thánh sử biểu thị việc thành lập tác vụ giáo hội qua hai biểu tượng. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm chọn biểu tượng Đức Giêsu bẻ bánh và trao Mình và Máu của ngài cho các môn đệ, trong khi đòi hỏi họ: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22, 19). Một cách khác, Tin Mừng Gioan trình bày cho chúng ta biểu tượng Đức Giêsu quấn khăn thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ và sau đó yêu cầu họ: ”Thày đã làm gương cho anh em để anh em làm theo những gì thày đã làm cho anh em” (Ga, 13, 14-15).

Trong ý thức của Giáo Hội, tức trong ánh sáng của biểu tượng rửa chân mà biểu tượng kia, theo đó Đức Giêsu trao ban Mình và Máu ngài, có được ý nghĩa trọn vẹn. Nghĩa là, lệnh truyền anh em hãy yêu thương nhau đem lại cho chúng ta chìa khóa hiểu được ý nghĩa của Phép Thánh Thể trong Giáo Hội. Điều này được phản ảnh trong phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh.

Chứng từ Giáo Hội nhận lãnh từ Đức Giêsu đây chỉ ra hai khía cạnh hay chiều kích của tác vụ cứu rỗi được triển khai trong Giáo Hội qua những tác vụ chuyên biệt khác nhau. Một đàng, qua chức linh mục phục vụ [thừa tác], được một bí tích riêng thiết lập, Giáo Hội bảo đảm lòng trung thành với việc nhớ đến Đức Giêsu chịu nộp mình, cái chết và sự phục sinh của ngài và làm cho việc nhớ đến này thành hiện tại trong Phép Thánh Thể. Mặt khác, Chúa Thánh Thần khơi dậy nơi các tín hữu việc nhớ lại Đức Giêsu tỏ ra qua thái độ phục vụ và tính cấp thiết của lệnh truyền của ngài: “Cứ dấu này mà mọi người nhận biết anh em là môn đệ thày” (Ga 13, 35).

Do đấy, nhiều đoàn sủng đã được khơi dậy giữa các tín hữu để phát triển sự hiệp thông qua việc phục vụ huynh đệ. Đó là cách mà ơn cứu độ đến với những người nghèo khổ: người mù thấy được, người què đi được, tù nhân được thả về, người trẻ được giáo dục, người ốm đau già cả được chăm sóc. Tình bác ái huynh đệ được hiện thực qua nhiều việc phục vụ, mà nhiều việc trong số đó đã được xác nhận thành định chế hoặc được công nhận như là tác vụ của Giáo Hội.[37]

Đời sống thánh hiến nảy sinh trong Giáo Hội khi đáp trả tiếng Chúa Thánh Thần  kêu gọi các tín hữu gìn giữ sống động ký ức về tình yêu Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương các môn đệ của ngài cho đến cùng.[38]Việc đáp trả này được diễn tả qua nhiều hình thức, nhưng sâu xa nhất, luôn luôn có một chọn lựa “tận căn dâng hiến bản thân vì tình yêu Chúa Giêsu và trong ngài, yêu mến mọi thành viên trong gia đình nhân loại.”[39]

Ơn gọi và căn tính của Sư Huynh đạt được ý nghĩa trong sức năng động này, vừa là bao trùm và vừa là bổ sung cho các tác vụ khác, nhưng cũng cần và cổ võ những dấu chỉ mang tính ngôn sứ.

1. MẦU NHIỆM: SƯ HUYNH, HỒNG ÂN LÃNH NHẬN

Chứng tá và Trung Gian: “Chúng tôi tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa”

13. Cội nguồn ơn gọi Sư Huynh là gì nếu không phải là kinh nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa? “Chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta đã tin vào đó” (1 Ga, 4, 16). Đấy cũng là nguồn mạch của mọi ơn gọi Kitô hữu. “Là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao quý, nhưng là việc gặp gỡ một biến cố, một nhân vật vốn đem lại cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi dứt khoát.”[40]

Chọn lựa quyết liệt được Cựu Ước đề xuất cho dân Israel, và cách riêng cho mỗi người Israel, được tìm thấy trong bối cảnh cuộc gặp gỡ giữa tín hữu và Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ Dân và kết giao ước với dân. Đây là việc thánh hiến toàn vẹn cuộc sống: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” (Đnl 6, 4-5). Đức Giêsu tái xác nhận đòi hỏi này, nhưng liên kết với mệnh lệnh sau: ”Ngươi hãy yêu thương cận nhân như chính mình” (Lv 19: 18). Từ đó, cả hai làm nên một giới răn bất khả phân chia (x. Mc 12, 29-31). “Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x. Ga 4, 10), tình yêu giờ đây không còn đơn thuần là ‘mệnh lệnh’ nữa; đó là lời đáp trả cho hồng ân tình yêu qua đó Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta”.[41]

Ơn gọi Sư Huynh không chỉ nhằm là ơn gọi của một người đã nhận lãnh tình yêu Thiên Chúa, nhưng còn để làm chứng nhân và người trung gian của chính hồng ân này, của kế hoạch hiệp thông mà Chúa ban cho nhân loại và được đặt nền tảng trên sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Kế hoạch này, tức Mầu Nhiệm đã được tỏ lộ cho chúng ta nơi Chúa Kitô, nhằm thiết lập mối tương quan chiều ngang giữa Thiên Chúa và nhân loại ngay chính giữa lòng nhân loại, tức là nơi mà Thiên Chúa muốn hiện diện.

Mối tương quan nghĩa tử này như thế được biến cải cùng lúc đó thành mối tương quan huynh đệ. Bởi đó, khi nói “[Sư] Huynh” tức là nói “người trung gian tình yêu Thiên Chúa”, vị Thiên Chúa “đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Duy Nhất của Người, để ai tin vào Ngài thì được sống đời đời” (Ga 3, 16).

Là Sư Huynh cũng chính là người trung gian cho tình yêu của Chúa Con, Đấng Trung Gian tuyệt hảo , ngài “đã yêu thương họ cho đến cùng” (Ga 13, 1), và đã xin chúng ta hãy yêu thương nhau như ngài đã yêu thương chúng ta (Ga 12, 34). Trong thế giới mà Thiên Chúa hết mực yêu thương đây, người Sư Huynh không thể nào che dấu. Trái lại, thày kinh nghiệm sự thúc đẩy ra đi để gặp gỡ và ôm ấp Thiên Chúa. Khi chiêm ngắm công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, người Sư Huynh khám phá mình là khí cụ Thiên Chúa muốn sử dụng để làm cho lộ hiện rõ nét hơn mối giao ước, tình yêu Thiên Chúa và lòng quan tâm đến những người yếu kém.

Người Sư Huynh ý thức rằng mọi thọ tạo đều thấm nhuần tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa và cách riêng, những gì tác động đến con người đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, nơi người Sư Huynh và cộng đoàn anh em Sư Huynh nẩy sinh quyết tâm làm cho sự phục vụ chuyên môn của mình có được phẩm chất trong mọi nhiệm vụ, bất kể công việc đó có vẻ là trần thế ra sao đi nữa. 

Được Chúa Thánh Thần thánh hiến

14. Không gì vĩ đại hơn là sự thánh hiến trong Phép Thánh Tẩy. Phép Thánh Tẩy “tái sinh chúng ta sống đời sống Con Thiên Chúa; kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô và Nhiệm Thể của ngài là Giáo Hội; xức dầu chúng ta trong Chúa Thánh Thần, làm cho chúng ta nên đền thờ thiêng liêng của Thiên Chúa.[42] Toàn bộ cuộc sống người Kitô hữu phải là sống trong một tiến trình hội nhập vào chương trình hiệp thông mà Phép Thánh Tẩy là dấu chỉ, đảm nhận sự dấn thân từ Phép Thánh Tẩy theo ơn gọi mỗi người nhận được từ Thiên Chúa.

Quả quyết trên có nguy cơ không hiểu được nếu chúng ta đọc nó ở bên ngoài câu truyện lịch sử cứu độ vĩ đại, trong đó nó hình thành và trong đó, qua Phép Thánh Tẩy, mỗi Kitô hữu tìm thấy vị trí độc đáo của mình. Câu truyện này nói cho chúng ta cách thức Thiên Chúa Ba Ngôi chuyển giao sự hiệp thông của ngài qua sứ mệnh cứu rỗi nhân loại, cách thức ngài đề xuất giao ước bằng nhiều thể thức, và quyết tâm đến cực độ trong cuộc nhập thể của Chúa Con. Câu truyện cứu rỗi này tiếp tục nhờ Chúa Thánh Thần, đấng quy tụ và xây dựng Giáo Hội với những ân ban của ngài, để rồi qua Giáo Hội, câu truyện này tiếp tục cứu rỗi nhân loại.

Tất cả chúng ta đều tham dự vào câu truyện vĩ đại này, bởi lẽ “Thiên Chúa kêu gọi từng cá nhân trong Đức Giêsu Kitô, gọi tên từng người một.”[43] Mỗi người tích cực tham dự vào và ảnh hưởng của người này trên người khác thật là then chốt. Mỗi thành viên của Giáo Hội được “ủy thác một trách vụ độc đáo mà người khác không thể làm thay được và phải được hoàn thành để mưu ích cho tất cả”.[44] Nhờ việc xức dầu được lãnh nhận trong Phép Thánh Tẩy và Thêm Sức, mỗi người đều có thể lập lại lời của Đức Giêsu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18-19). Như thế, “người chịu phép Thánh Tẩy thông dự vào cùng một sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế.”[45]

Dấn thân công khai: làm cho diện mạo Đức Giêsu Người Anh được hiển hiện trong ngày hôm nay

15. Chính trong câu truyện mang tính cá vị này, khởi sự trong Phép Thánh Tẩy, mà sự thánh hiến tu sĩ được tháp nhập vào và có được ý nghĩa tròn đầy của mình. Đây là việc “đào sâu một cách đặc biệt và hữu hiệu sự thánh hiến Phép Thánh Tẩy, theo như nó diễn tả một ơn gọi “có liên quan tới một hồng ân đặc biệt của Chúa Thánh Thần”.[46] Hồng ân này được kinh nghiệm như là một nỗi khát khao được công bố bằng chính đời sống của mình, cho cộng đoàn Giáo Hội và cho thế giới, những gì Đức Giêsu đã công bố trong hội đường Nagiaret: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21). Nỗi khát khao này vốn là đặc trưng cuộc đời của ngôn sứ, được đi kèm theo bằng một lời mời gọi tự thâm tâm cảm nhận là muốn minh chứng, qua đời sống tự nguyện độc thân, ôm ấp trong tình yêu thương và được sống trong cộng đoàn huynh đệ, một thế giới mới được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô, hoa trái của giao ước của ngài với Giáo Hội vượt qua [mối liên hệ] huyết tộc.

Mỗi một cuộc [đời] thánh hiến tu trì diễn tả cho tín hữu rằng mầu nhiệm Chúa Kitô Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm trong ngày hôm nay, trong thế giới này và qua Giáo Hội ngày hôm nay. Mọi nơi và mọi thời, những người thánh hiến tỏ lộ cho những người đương thời những đường nét của Đức Giêsu qua đó chính ngài đã cho thấy rõ rằng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã xâm nhập vào trong lịch sử. Việc lộ hiện đó có được nhờ cách thức hiện diện ở đây lúc này tỏ lộ đoàn sủng của mỗi gia đình tu sĩ. Vì thế, những người thánh hiến nên thường xuyên tự hỏi làm thế nào mình làm chứng được cho Thiên Chúa ngày hôm nay. Loại hiện diện nào mình phải sống để Chúa Giêsu có thể được con người ngày nay thấy và kinh nghiệm?

Đời sống thánh hiến được gọi là “tưởng niệm sống động lối sống và hành động của Đức Giêsu như là Ngôi Lời Nhập Thể trong tương quan với Chúa Cha và các anh em”.[47] Cách riêng, người Sư Huynh, và cũng như thế, Chị Em Nữ Tu, làm cho hiển hiện trong Giáo Hội diện mạo Đức Giêsu Người Anh, “trưởng tử giữa nhiều anh em” (Rm 8, 29), đấng tạo thành một tương quan huynh đệ mới mà ngài thiết lập qua giáo huấn và đời sống của mình.

Thực thi chức tư tế  Phép Thánh Tẩy

16. Công đồng Vatican II đã làm sáng tỏ sự phong phú của Phép Thánh Tẩy và tầm quan trọng của chức tư tế chung của mọi người đã được rửa tội. Công đồng ghi nhận mối tương quan hỗ tương giữa chức tư tế phép thánh tẩy và chức tư tế phục vụ [thừa tác], và nhắc lại rằng tự căn bản, chức tư tế phục vụ có tương quan tới chức tư tế của mọi tín hữu.[48]

Người Sư Huynh, sống bậc thế trần qua việc thánh hiến đặc biệt, là chứng nhân cho giá trị chức tư tế chung đã được lãnh nhận trong Phép Thánh Tẩy và Thêm Sức: “Ngài đã làm cho chúng ta thành hàng tư tế vương giả, để phụng sự Thiên Chúa và Cha của ngài” (Kh 1, 5.6). Thánh hiến tu sĩ tự nó đã là việc thực hành chức tư tế sung mãn của người đã được rủa tội.  Hành vi thiết yếu của chức tư tế này là hiến dâng của lễ thiêng liêng qua đó những người Kitô hữu đặt mình vào trong tay Thiên Chúa như “của lễ hy sinh sống động” (Rm 12, 1), đáp lại tình yêu của Chúa và vì vinh quang của Người.

Người Sư Huynh sống hiệp thông với Chúa Cha, nguồn mạch mọi sự sống, qua việc hoàn toàn dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa trong thái độ ngợi khen và thờ lạy. Cắm rễ sâu cuộc đời mình trong Thiên Chúa, người Sư Huynh thánh hiến toàn thể tạo thành, nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa và hành động của Chúa Thánh Thần trong tạo thành, trong các nền văn hóa và trong các biến cố hàng ngày. Bởi vì thày nhận ra sự hiện diện tích cực này, thày có thể loan báo điều đó cho những người đương thời của mình. Khả năng này là kết quả của cả một tiến trình liên tục mở lòng ra cho Thiên Chúa qua sự thánh hiến, nghĩa là, hàng ngày kinh nghiệm chức tư tế phép Thánh Tẩy.

Nên giống anh em mình mọi đàng

17. Thánh hiến tu sĩ giúp người Sư Huynh tham dự một cách có ý thức hơn vào chiều kích huynh đệ làm nên đặc trưng chức tư tế của Chúa Kitô. Ngài “đã hoàn toàn nên giống anh em mình, vị thượng tế đầy lòng xót thương và đáng tin cậy (Dt 2, 17.18). Mặc lấy cho chúng ta bậc sống làm con cái Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô trước tiên đã trở thành người Anh, chia sẻ thịt và máu chúng ta và cùng liên đới với những đau khổ của các anh em của ngài. Đó là danh hiệu Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ của ngài sau khi ngài phục sinh, và Maria Mađalêna chịu trách nhiệm thông báo điều này: “Hãy đi nói cho các anh em của thày, và nói cho họ: thày về cùng Cha của thày và Cha của anh em” (Ga 20, 17).

Trong cộng đoàn huynh đệ vốn nâng đỡ mình, người Sư Huynh kinh nghiệm được mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh như là một lời mời gọi và lời sai đi cho sứ mệnh. Cộng đoàn là không gian thuộc về Thiên Chúa,[49] nơi đó Đức Giêsu hiện diện giữa các anh em (x. Mt 18, 20) để hiệp nhất họ lại thành một tâm hồn, ban cho họ Thần Khí của ngài (x. Ga 20, 22) và sai họ ra đi, như khi sai Maria Mađalêna, loan báo rằng trong Chúa Kitô, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau, con cùng một Cha. Ngập chìm trong kinh nghiệm này, người Sư Huynh phát huy chức tư tế Phép Thánh Tẩy của mình xuyên qua tình huynh đệ. Qua đó, thày trở thành nhịp cầu giữa Thiên Chúa và anh em mình, được Chúa Thánh Thần xức dầu và sai đi để mang Tin Mừng tình yêu và lòng thương xót của Chúa cho hết mọi người, cách riêng cho những anh em bé mọn nhất, những thành viên yếu đuối nhất trong nhân loại.

Người Sư Huynh và tín hữu giáo dân dấn thân vào xã hội trần thế sống chức tư tế phổ quát bằng những cách thức khác nhau. Cả hai nhóm đều diễn tả sự phong phú đa dạng của chức tư tế này vốn bao hàm sự gần gũi với Thiên Chúa và gần gũi thế giới, thuộc về Giáo Hội như là người phục vụ Chúa và phục vụ Giáo Hội vốn được xây dựng trong thế giới vì Thiên Chúa. Người Kitô hữu giáo dân dấn thân nhắc nhở mạnh mẽ cho người Sư Huynh rằng thày không thể nào được rửng rưng với ơn cứu rỗi của nhân loại, cũng không được rửng rưng với sự tiến bộ trên trần thế vốn được Thiên Chúa yêu thương và quy hướng về Chúa Kitô. Người Sư Huynh nhắc nhở người Kitô hữu giáo dân dấn thân vào xã hội trần thế rằng sự tiến bộ trên trần gian không phải là cùng đích tối hậu, và rằng “việc xây dựng thành đô trần thế có nền tảng trong Chúa và hướng tới Người, để những ai xây dựng thành đô này có lẽ không lao nhọc uổng công.”[50]

Tuyên khấn: một sự thánh hiến độc đáo, được diễn tả qua những lời khấn

18. Việc dâng hiến mình được thực hiện công khai và được Giáo Hội tiếp nhập qua việc tuyên khấn. Thánh hiến đi trước những lời khấn, bao trùm lấy lời khấn và vượt qua lời khấn trong đời sống hiện sinh. Quả quyết này nên được hiểu trong ánh sáng những gì nói sau đây.

Đáp trả lại hành động yêu thương của Thiên Chúa, người thánh hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa trong đời sống tu sĩ, dâng hiến trước tiên chính cuộc đời mình, để cuộc đời mình trở thành dấu chỉ rằng Thiên Chúa là trên hết, và cuộc đời chỉ dành cho Người, cho Giao Ước, cho tình yêu Thiên Chúa dành cho dân của mình. Đó là quyết tâm sống yêu thương như là định hướng căn bản của cuộc đời. Đó là mối dây liên kết huynh đệ đáp trả lại hồng ân nghĩa tử đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa trong Chúa Con Giêsu.

Sự thánh hiến này, vốn hiệp nhất và hội nhập toàn bộ cuộc đời, thúc đẩy người thánh hiến sống ở đây lúc này trong từng ngày sống của lễ dâng hiến hy sinh trong toàn bộ mọi chiều kích cuộc sống cụ thể của mình. Trong sức năng động hội nhập toàn bộ như thế, lời khấn có được ý nghĩa như là cách thế bao trùm toàn bộ cuộc sống với những cung bậc khác nhau.

Trong lịch sử tu trì, việc tuyên khấn công khai đã được giải thích bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng từ thế kỷ thứ 13, việc đó có khuynh hướng chung chung diễn tả qua những lời khuyên phúc âm, làm sáng tỏ ý định khuôn đúc toàn bộ cuộc sống theo Chúa Kitô[51] trong ba chiều kích thiết yếu: thanh khiết, nghèo khó và vâng phục.

Người Sư Huynh diễn tả sự thánh hiến của mình qua việc tuyên khấn những lời khuyên Phúc Âm, cùng lúc đó, ý thức đến việc hiệp nhất cuộc đời và việc nên đồng hình dạng với Chúa Kitô qua cái cốt lõi của Tin Mừng, là giới răn mến Chúa yêu người. Thày sống đức thanh khiết, cách riêng như là kinh nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua đó thày cảm thấy mình được thôi thúc hướng tới tình yêu phổ quát và trở thành người cổ võ sự hiệp thông qua chứng tá tình yêu huynh đệ của mình.[52] Thày sống đức khó nghèo như là người đã lãnh nhận được  một cách tự do, nơi con người Đức Giêsu, viên ngọc quý giá là Nước Thiên Chúa. Do bởi Nước Thiên Chúa, thày sẵn sàng đặt mình để xây dựng tình huynh đệ và phục vụ mọi người trong tình bác ái, cách riêng những người nghèo khó nhất. Lời khấn khó nghèo mở rộng các Sư Huynh cho nhau và làm cho các anh em ý thức rằng mình cần có nhau. Thày sống đức vâng phục, cách riêng, như là việc cùng nhau tìm kiếm thánh ý Chúa Cha, trong tình huynh đệ được Chúa Thánh Thần sinh động, với quyết tâm một trí lòng cùng nhau tiến bước [53] và hân hoan chấp nhận những trung gian nhân loại như Tu Luật của mỗi Hội Dòng chỉ ra.[54]

Như thế, các lời khấn diễn tả quyết tâm của người Sư Huynh muốn sống mầu nhiệm Thiên Chúa, mà thày đã được xác lập, cùng với những Sư Huynh khác, thành dấu chỉ lời ngôn sứ cho cộng đoàn Giáo Hội và thế giới:[55] mầu nhiệm tình yêu, giao ước và tình huynh đệ.

Một linh đạo nhập thể và thống nhất hóa

19. Chiều kích ngôn sứ là một phần thiết yếu trong căn tính của người thánh hiến và được khai triển trước tiên bằng việc lắng nghe. Đây là kinh nghiệm của Người Tôi Tớ Yavê: “Sáng sáng Ngài đánh thức tôi, và Ngài đã mở tai để tôi lắng nghe như người môn đệ” (Is 50, 4). Chỉ có kinh nghiệm để Thiên Chúa là trung tâm [cuộc đời] và được Lời của Người bao trùm mới bảo đảm được việc sống chiều kích này trong việc tông đồ, vì “lời ngôn sứ đích thực được sinh ra từ Thiên Chúa, từ tình bằng hữu với ngài, từ việc chú tâm lắng nghe lời của ngài qua những tình huống khác nhau trong lịch sử”.[56] Khả năng đọc được cách sâu xa những dấu chỉ của thời đại, qua đó, hiểu được tiếng Chúa gọi làm việc theo kế hoạch của Người,[57] khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi dân chúng, cách riêng nơi những người nghèo khổ, tất cả đều là kết quả do vun trồng việc chiêm niệm, giúp ta nhìn ra sự việc và con người như Thiên Chúa nhìn thấy.

Linh đạo của người Sư Huynh phải đưa thày đến việc nhấn mạnh cách riêng kinh nghiệm nền tảng của người Kitô hữu mà thánh sử Mathêu đã diễn tả theo biểu tượng như sau: “Màn của Cung Thánh đã được xé ra làm đôi” (Mt 17, 51). Hình ảnh này gợi ý cho chúng ta rằng, qua cái chết của ngài, Đức Giêsu “đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10, 20) ngõ hầu chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Cha. Thiên Chúa không còn chỉ hiện diện ở “nơi thánh thiêng nữa”. Từ đó, “ta sẽ thờ lạy Thiên Chúa trong thần khí và sự thật” (Ga 4, 24).

Người Sư Huynh được mời gọi sống linh đạo nhập thể và thống nhất này. Linh đạo ấy giúp thày gặp gỡ Thiên Chúa, không chỉ bằng việc lắng nghe Lời Chúa, trong các bí tích, phụng vụ và kinh nguyện, nhưng còn trong đời sống hàng ngày, trong tất cả mọi nhiệm vụ của thày, trong lịch sử thế giới, trong những công cuộc phàm nhân, trong  thực tại vật chất, trong công việc và kỹ thuật. Linh đạo này được xây dựng trên một tầm nhìn sâu xa về tính duy nhất trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô đã tạo dựng nên thế giới và cứu độ thế giới. Đó là việc biến tất cả thành kinh nguyện và bảo đảm rằng kinh nguyện được tiếp tục trong đời sống.

Người Sư Huynh hội nhập kinh nguyện chính thức của Giáo Hội với chiều kích phục vụ làm nên đặc trưng đời sống thánh hiến của mình. Các thày vun trồng một thái độ chiêm niệm có khả năng nhìn ra được sự hiện diện của Đức Giêsu trong những hoàn cảnh của các thày, trong đời sống hằng ngày, trong công việc và những dấn thân, để có thể cùng thốt lên với ngài: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha… vì Cha đã mạc khải những điều này cho những người bé mọn…” (Lc 10, 21).

Một linh đạo lắng nghe Lời để sống Mầu Nhiệm “tại nhà” với Đức Maria

20. Ba Tin Mừng Nhất Lãm vắn tắt thuật lại cảnh Đức Giêsu phân biệt rõ rệt giữa “mẹ ngài và anh em ngài” theo huyết tộc và “mẹ ngài và anh em ngài là những người lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”(Lc 8, 21). Trong câu truyện, Đức Giêsu nói rõ là ngài cổ võ nhóm sau. Nhóm trước ở bên ngoài nhà, họ gọi ngài ra ngoài với họ; nhóm sau quây quần bên ngài, ở trong nhà,lắng nghe Lời ngài. Loại tương quan gia đình mới mẻ này đã được Đức Giêsu thiết lập trong đó, Đức Maria có một vị thế cao cả đích thực và mang lấy ý nghĩa sâu xa cho cộng đoàn Kitô hữu. Nói về mẹ, Thánh sử Luca nói rằng “mẹ đã gìn giữ tất cả những điều này trong lòng, và suy niệm không ngừng” (Lc 2, 19. 51). Đức Maria đón nhận và hoàn toàn sống mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa đến độ tình yêu đó trở thành xác thịt nơi mẹ. Mẹ là mối dây nối kết cộng đoàn anh chị em vừa mới được nẩy sinh, và mẹ đồng hành với cộng đoàn này trong đó, mẹ hội nhập vào như là người mẹ, người chị; và trong tình huynh đệ này, mẹ lãnh nhận Chúa Thánh Thần (x. Cv 1, 14; 2, 1-4).

Như Đức Maria, người Sư Huynh được mời gọi sống mãnh liệt linh đạo lắng nghe Lời Chúa, trải nghiệm mình được ở trong nhà quây quần chung quanh Đức Giêsu, lắng nghe sứ điệp của ngài, sống với ngài mầu nhiệm Thiên Chúa đấng đã làm cho ta thành con cái trong Chúa Con và thành anh chị em giữa chúng ta và anh chị em với Đức Giêsu.

Được Đức Maria nâng đỡ và soi dẫn, người Sư Huynh sống trong cộng đoàn của mình kinh nghiệm về Chúa Cha, đấng quy tụ các anh em lại với Con của Người chung quanh bàn tiệc Lời Chúa, Thánh Thể và đời sống. Với Đức Maria, người Sư Huynh ca khen Thiên Chúa cao cả và công bố ơn cứu rỗi của Người. Bởi đó, thày cảm thấy mình được thôi thúc đi tìm và dọn chỗ nơi bàn tiệc Vương Quốc cho những ai không có gì để ăn, những người bị xã hội ruồng bỏ và bị gạt ra bên lề khỏi sự tiến bộ. Đấy là Lễ Thánh Thể của cuộc đời mà người Sư Huynh được mời gọi cử hành trong tinh thần chức tư tế phép Thánh Tẩy, được sự thánh hiến tu trì tái xác nhận.

2. HIỆP THÔNG: SƯ HUYNH, HỒNG ÂN CHIA SẺ

21. Mầu nhiệm hiệp thông đời sống rất thâm sâu Chúa Ba Ngôi thông truyền cho chúng ta trở thành hồng ân các anh em Sư Huynh chia sẻ trong cộng đoàn. Hồng Ân lãnh nhận và chia sẻ cũng sẽ được trao ban trong sứ mệnh.

Nền tảng nâng đỡ đời sống cộng đoàn tu sĩ này trước tiên là hồng ân tình huynh đệ cộng đoàn đã lãnh nhận, vốn là thực tại còn thiết yếu hơn là những cố gắng và lòng quảng đại của các thành viên, hoặc hơn là những trách vụ họ thực thi. “Khi nào ta đánh mất chiều kích thần nghiệm và tính thuộc về Thiên Chúa này, vốn là thực thể nối kết cộng đoàn tu sĩ với mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa, hiện diện và được thông truyền cho cộng đoàn, ta không tránh được là sẽ quên đi những lý do sâu xa tại sao chúng ta làm nên một cộng đoàn để nhẫn nại xây dựng đời sống huynh đệ”.[58]

Cộng đoàn của các anh em Sư Huynh tỏ lộ như thế trong tính phổ quát của tình huynh đệ được Đức Giêsu khởi sự, vì cộng đoàn không được xây dựng trên những mối dây tự nhiên nhưng trên quyền năng của Chúa Thánh Thần, là nguyên lý tình yêu sống động giữa con người. Đời sống cộng đoàn chân thực biểu tượng dấu chỉ sống động của thực tại thiết yếu mà các anh em Sư Huynh loan báo. Tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô trở thành nguyên lý hiệp nhất con người lại với nhau. “Xin cho họ nên một ngõ hầu thế gian được tin” (Ga 17, 21). Xây dựng trên đức tin, cộng đoàn hiện thực sứ vụ tỏ lộ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi qua sự hiệp thông ngự trị trong cộng đoàn.

Thánh hiến và sứ mệnh được hiệp nhất trong cộng đoàn. Giữa cộng đoàn, được quy tụ nhân danh Đức Giêsu, người Sư Huynh kinh nghiệm được mầu nhiệm Thiên Chúa: tình yêu Chúa Cha, sự sống Đức Kitô Phục Sinh, ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Chúa thánh hiến người Sư Huynh trong cộng đoàn và từ đó, sai thày ra đi thông truyền cùng một mầu nhiệm ấy: tình yêu, sự sống, tình hiệp thông.

Cộng đoàn khai triển chức tư tế Phép Thánh Tẩy

22. Cộng đoàn của các Sư Huynh tự nó đã là biểu hiện đầu tiên của chức tư tế Phép Thánh Tẩy. Đời sống của cộng đoàn được hình thành sao cho các thành viên sống được kinh nghiệm là mình được Thiên Chúa tuyển chọn “như là những viên đá sống động, được dùng để xây dựng ngôi nhà thiêng liêng, chức tư tế thánh thiện là dâng hy lễ thiêng liêng làm vui lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2, 5). Hình ảnh từ lá thư thứ nhất của thánh Phêrô đây cho chúng ta hiểu được ý nghĩa của sức năng động của một công trình đang được xây dựng. Quả là rất xứng hợp khi chỉ công trình đó là cộng đoàn các anh em Sư Huynh, được mời gọi phát triển chiều kích linh mục chung của anh em.

Cộng đoàn tổ chức đời sống của mình sao cho có thể nhìn ra hành động Thiên Chúa hiện diện trong đời sống thường nhật và khám phá ra ở nơi đó lịch sử cứu độ đang được hoàn thành mỗi ngày. Trong cùng cái nhìn chiêm niệm đó, cộng đoàn khám phá mình như là trung gian cho hành động cứu độ của Thiên Chúa. Cộng đoàn tri ân, cử hành và dâng hiến chính mình để tiếp tục làm khí cụ hữu hiệu trong lịch sử cứu độ.

Bản chất của việc dâng hiến mang tính tư tế này cũng chính là thực tại của các anh em Sư Huynh, với những giới hạn, sự nghèo khó và yếu đuối của từng người. Các Sư Huynh xây dựng cộng đoàn qua việc hân hoan dâng hiến bản thân. Đó là một trải nghiệm mang tính Hy Lễ Tạ Ơn [Thánh Thể], qua đó, các thày được kết hiệp với Chúa Kitô trong cuộc hiến dâng bản thân của ngài cho Chúa Cha, tiếp tục công cuộc cứu độ của ngài qua cộng đoàn của mình. Trong việc cử hành cuộc sống, không thể thiếu được sự tha thứ giữa các anh em, không chỉ như là một đòi hỏi của tình yêu thương và là điều kiện để xây dựng cộng đoàn, nhưng còn là một cách diễn tả chức tư tế phép Thánh Tẩy. Như thế, các thày trở thành người trung gian cho nhau ơn thánh và sự tha thứ đến từ Đức Giêsu Phục Sinh (x. Ga 20, 22-23).

Tình Huynh Đệ Phục Vụ: “cội nguồn và hoa trái của sứ mệnh”

23. “Hiệp thông biểu thị cội nguồn và hoa trái của sứ mệnh”.[59]Quả quyết từ suy tư hậu công đồng của Giáo Hội đây tìm thấy được một hình ảnh sống động trong cộng đoàn các Sư Huynh kiến tạo. Đó luôn luôn là tình huynh đệ vì sứ mệnh. Đấy không chỉ là một cộng đoàn ra đi làm việc tông đồ. Mầu nhiệm Thiên Chúa cứu độ trổi lên như là nguồn mạch trong cộng đoàn; mầu nhiệm đó được sống giữa các Sư Huynh và được diễn tả trong sứ mệnh của Giáo Hội. Mầu nhiệm đó trở lại cộng đoàn và nuôi dưỡng đời sống cộng đoàn từ thực tại được trải nghiệm trong sứ mệnh.

Được khuyến khích bởi đoàn sủng hội dòng của mình, các Dòng Sư Huynh tạo thành những cộng đoàn được đặt vào giữa lòng sứ mệnh, trong một phần nhỏ của sứ mệnh vĩ đại của Giáo Hội, dù là hoạt động hay chiêm niệm hoặc bao gồm cả hai. Cộng đoàn hành động như là đại sứ của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, một khí cụ cứu độ giữa những người đau khổ, giữa những người bị gạt ra bên lề, giữa những người nghèo hèn và yếu đuối. Cộng đoàn nhập thể sự hiện diện của Thiên Chúa trong thực tại con người cần đến ơn cứu độ. Đó là lý do tại sao người ta dễ dàng nhận ra cộng đoàn ấy như dấu hiệu chỉ trực tiếp đến ý nghĩa này. Đó là đoàn thể của những người anh em [huynh đệ] nỗ lực sống tình hiệp thông xoay quanh Đấng đã quy tụ họ lại, và họ thông truyền kinh nghiệm này như là sứ điệp của Đấng sai họ ra đi.

Việc Giáo Hội phê chuẩn các Hội Dòng Sư Huynh bao gồm trước tiên, việc ủy thác trách vụ truyền giáo mà mỗi sư huynh thực thi theo đoàn sủng của mình. Thứ đến, Giáo Hội nhìn nhận rằng sự dấn thân của các anh em sư huynh vào những hoàn cảnh con người khác nhau trong đó anh em can dự không chỉ là điều gì phụ tùy hoặc bên ngoài cuộc sống tu sĩ của anh em, nhưng là phần thiết yếu trong căn tính và sự thánh hiến của anh em. Vượt quá những trách vụ chuyên biệt anh em thực thi, những cộng đoàn thánh hiến này biểu thị Giáo Hội, bí tích phổ quát ơn cứu độ,[60] giữa lòng xã hội và cách riêng sát cạnh với những người nghèo hèn và đau khổ.

Vậy, kể là thích đáng để nói đến những cộng đoàn các anh em Sư Huynh như là những huynh đoàn phục vụ,[61] theo nghĩa,  tác vụ Giáo Hội được cộng đoàn các Sư Huynh đảm nhận đem lại căn tính rõ rệt cho cộng đoàn trong Giáo Hội. Ngoài ra, cộng đoàn nhấn mạnh đến tương quan huynh đệ giữa các thành viên và với những ai tham gia vào sứ mệnh của mình. Sứ vụ này không được cá nhân mà là do cộng đoàn thực thi. Các thành viên của cộng đoàn phục vụ đây có thể thi hành nhiều phận sự khác nhau; có khi một số anh em không thể thực hiện trách vụ bên ngoài nào do bệnh tật hay tuổi tác. Sứ vụ không được đồng hóa với bất kỳ một trách vụ nào. Chính là toàn thể cộng đoàn thực thi trách vụ đó xuyên qua những việc phục vụ khác nhau của các thành viên, bao gồm cả việc những bệnh nhân cầu nguyện, hiến dâng đau khổ của mình, cùng liên đới với nhau. Toàn thể cộng đoàn chịu trách nhiệm về sứ mệnh mà Giáo Hội ủy thác cho mình.

Bậc sống huynh đệ trong phục vụ là sự đóng góp nền tảng của các Hội Dòng Sư Huynh cho đời sống thánh hiến và Giáo Hội. Qua bậc sống sư huynh, các Hội Dòng ấy nhấn mạnh mối dây bất khả phân ly giữa hiệp thông và sứ mệnh, vai trò thiết yếu của tình yêu huynh đệ như là cốt lõi của việc rao giảng Tin Mừng trong chiều kích bao la và phức tạp của nó, thức tại Chúa Thánh Thần đang hành động và những hạt giống Lời[62] đang hiện diện cách nào đó trong tất cả dân tộc và các văn hóa.

Tình hiệp thông huynh đệ và đời sống chung

24. Như là đặc trưng đời sống tu sĩ của các Sư Huynh, đời sống chung là để khuyến khích tình hiệp thông huynh đệ một cách mạnh mẽ, nhưng anh em sống huynh đệ với nhau không hẳn sẽ tự động trở thành một thực tại [chỉ] nhờ việc tuân giữ những tu luật quy định đời sống chung.[63]

Quả đúng là cần phải có những cơ cấu, song cộng đoàn giữa các Sư Huynh được tỏ lộ chủ yếu qua những thái độ của anh em. Anh em quy tụ lại để thông dự đầy đủ hơn vào đời sống và sứ mệnh của Đức Giêsu, làm chứng cho tình huynh đệ và việc là con cái Thiên Chúa mà mọi tín hữu đều được mời gọi.

Như thế, đối với các Sư Huynh, cộng đoàn là một kinh nghiệm hơn là một nơi chốn; hay đúng hơn, các Sư Huynh sống chung với nhau, quy tụ tại một nơi, để phát triển kinh nghiệm ấy. Sống như thế, anh em đang đáp lại tiếng gọi trở thành chuyên gia về tình hiệp thông,[64] thành dấu chỉ hữu hiệu về khả thể sống mối tương quan sâu xa hơn vì được cắm rễ trong tình yêu Chúa Kitô.

Tình yêu hỗ thương là dấu hiệu của các Kitô hữu (x. Ga 13, 35) và đây là dấu chỉ mà các anh em Sư Huynh cống hiến. Tình yêu này phải trở thành tiêu chuẩn phân định nơi mỗi cộng đoàn các anh em Sư Huynh, trên cả và vượt quá tính hữu hiệu của công việc. Ta dễ dàng thấy được cách thức các Hội Dòng Sư Huynh , vào thời kỳ thành lập Hội Dòng, tình yêu huynh đệ đã là dấu cốt lõi của sáng kiến, và họ minh nhiên đảm nhận lý tưởng của các Kitô hữu thời sơ khai, làm nên “một lòng và một linh hồn” (Cv 4, 32). Từ quan điểm này, họ tổ chức hoạt động tông đồ, ý thức rằng việc tông đồ hệ tại truyền giao những gì các Sư Huynh đã sống trước trong cộng đoàn. Bậc sống Sư Huynh của họ tạo nên tình huynh đệ, , và sứ mệnh của các anh em Sư Huynh  ngay từ đầu đã mang đặc điểm là sống hiệp thông tạo nên sự hiệp thông.

Bậc sống huynh đệ và các lời khuyên Phúc Âm: dấu chỉ-đối nghịch

23. Kinh nghiệm ngôn sứ về tình huynh đệ[65] nơi các anh em Sư Huynh được đi kèm với nỗ lực sống theo nếp sống của Đức Giêsu. Đời độc thân thánh hiến cho phép họ sống sung mãn đời sống cộng đoàn và là anh em cho hết mọi người, hơn là chỉ sống một thứ tình yêu loại trừ. Nghèo khó, việc chọn một lối sống chừng mực và giản dị, nghĩa là chia sẻ của cải để kinh nghiệm tình hiệp thông huynh đệ với nhau.[66] Và vâng phục, qua đó, tất cả mọi sự quy tụ vào kế hoạch chung, “cùng chứng tá và cùng sứ mệnh, trong khi vẫn tôn trọng sự khác biệt của các tặng ân và nhân cách cá vị của nhau”[67]. Kinh nghiệm mang tính ngôn sứ đây đòi hỏi bước đầu phải dứt bỏ quê quán của mình, gia đình, bạn bè và những người khác, chỉ để sau này đắc thủ lại, trong tư cách là phần tử sâu xa của một gia đình mới, trong một khung tình huynh đệ phổ quát mới.

Cộng đoàn anh em Sư Huynh sống sứ mệnh mang tính ngôn sứ này quả là nghịch lại với nền văn hóa, bởi lẽ, phong cách sống của cộng đoàn, theo như Tin Mừng, hẳn đối lại với những gì mà thế gian cổ võ. Cộng đoàn anh em Sư Huynh là “bậc sống huynh đệ được Chúa Thánh Thần khai sinh, thuộc về sự tự do nội tâm của những ai đặt niềm phó thác vào Thiên Chúa dẫu cho những ai đại diện Chúa có những giới hạn.”[68] Bởi đó, đây là nơi có nhiều nỗ lực, lệ thuộc nhau, sống hài hòa, và liên đới, cởi mở và ra đi, trong một lối sống thật đòi hỏi, trong việc phân định phong cách sống của mình theo ánh sáng của Tin Mừng. Tuy nhiên, ta cũng không nên quên rằng, cộng đoàn là một dấu chỉ mỏng dòn: nó cần canh tân liên lỉ; cộng đoàn phải được sống hướng theo con đường nên thánh và nhờ sức năng động Tin Mừng làm cho sống động và liên lỉ tái tạo các cơ cấu.

Cộng đoàn trên đường tìm kiếm

26. Ngay từ đầu kinh nghiệm ơn gọi của mình (x. Cv 22, 30-21), thánh Tông Đồ Phaolo hỏi, “Con phải làm gì, lạy Chúa?” Câu hỏi này nói lên điều xảy ra cho người là sự thay đổi tận căn thái độ, làm cho người bỏ qua con đường riêng của mình để đi theo con đường của Đức Giêsu. Câu trả lời sẽ không tìm thấy được trong việc chu toàn xác đáng lề luật và truyền thống Hội Đường, nhưng phải hơn, nơi việc người lắng nghe dân người, suy tư về những biến cố hàng ngày và chiêm niệm Lời Chúa.

Người Sư Huynh, khi đối diện với hiện tại, phải chấp nhận liều lĩnh hỏi cũng câu hỏi như Phaolo: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”, nhưng câu hỏi này chỉ chân thành khi trước đó đã có được ý muốn “đứng dậy”, bởi lẽ đó là lời đáp trả đầu tiên được yêu cầu (x. Cv 22, 10.16). Nói cách khác, trung thành với thời hiện đại đòi hỏi bản thân phải có ý muốn thay đổi và bị khuấy động. Không có điều đó, thì sẽ có ít giá trị trong việc canh tân các cơ cấu.

Một Sư Huynh không tự mình hỏi mình, nhưng hướng câu hỏi đến Chúa Giêsu bởi lẽ thày muốn biết và làm theo thánh ý ngài. Thày sẽ cần phải là người chiêm niệm, có thể khám phá ra ngài nơi dân chúng và nơi những biến cố hàng ngày trong ánh sáng Lời Chúa. Việc soi dẫn này cho phép người Sư Huynh giải thích đời sống hàng ngày với trái tim của Chúa và sống mọi giây phút như là thời gian của ân sủng và ơn cứu độ.

Như mọi hình thái đời sống Kitô hữu, đời sống thánh hiến là cuộc mưu tìm sự trọn lành trong tình yêu.”[69] Ơn gọi và nỗ lực của người Sư Huynh khi nhắc nhở cho mọi người bổn phận này thì cũng là động lực để thày càng nỗ lực hơn nữa.[70] Trong cuộc tìm kiếm này, anh em phải hết sức lưu tâm đến những gì làm xói mòn đời  sống huynh đệ trong cộng đoàn. Có nhiều cấu tố mang khuynh  hướng phá hoại đời sống đó nếu các anh em Sư Huynh không nỗ lực hàng ngày và không sửa chữa những tổn hại và những rạn nứt đã xảy ra. Một phần tiến trình hoán cải là liên tục trở về những gì cơ bản, về lại sứ mệnh làm ngôn sứ trong Giáo Hội: sống đời huynh đệ như là một hồng ân Thiên Chúa ban cho, và củng cố đời sống đó với sự trợ giúp của Thiên Chúa, và nỗ lực của các Sư Huynh, trong cộng đoàn và cũng như từ cộng đoàn để ra đi.

3. SỨ MỆNH: SƯ HUYNH, HỒNG ÂN TRAO BAN

Sống đời sư huynh với những người bé nhỏ nhất: “Những gì ngươi làm cho người bé nhỏ nhất trong anh em của ta” (Mt 25, 40)

27. Hai hình ảnh Phúc Âm cho chúng ta thấy được ý nghĩa sứ mệnh của người Sư Huynh. Hình ảnh Đức Giêsu động lòng thương xót đám đông, “vì họ như chiên không có người chăn” (Mc 6, 34). Đức Giêsu đã làm cho họ no thỏa với bánh Lời Chúa và được lòng thương xót thôi thúc, ngài đã xin các môn đệ cũng hãy phân phát bánh ăn đời thường: “Anh em hãy cho họ ăn” (Mc 6, 37).

Hình ảnh thứ hai cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu, Con Người, nhưng lần này lòng thương xót của ngài lại thông qua tình huynh đệ đích thực với những người bất hạnh nhất. Ngài còn đồng hóa bản thân mình với họ. Lệnh truyền của ngài trở thành một lời cảnh cáo nghiêm trọng: “Những gì các ngươi làm cho một trong những người anh em của ta đây, các ngươi làm cho chính Ta… Bất cứ khi nào các ngươi không làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất của những người này, các ngươi đã không làm cho ta”(Mt 25, 40.45).

Lòng quan tâm của Đức Giêsu muốn thuyên giảm nỗi đau khổ và đáp ứng nhu cầu của dân chúng thật là rõ nét qua suốt Tin Mừng, đến độ ngài đồng hóa mình với những người nghèo khổ và cảnh báo rằng chỉ những ai tra tay cứu giúp họ mới được thừa hưởng Vương Quốc ngài hứa ban. Cũng thế, sứ mệnh các môn đệ ngài được ủy thác, khi được sai đi rao giảng Tin Mừng, không chỉ nói đến việc loan báo sứ điệp thiêng liêng nhưng còn là việc giải phóng khỏi những gì áp bức dân chúng và là thăng tiến họ về mặt nhân bản,[71] bởi lẽ “giữa phúc âm hóa và thăng tiến nhân bản-phát triển và giải phóng-thực sự có những mối liên kết sâu xa”.[72]

Qua giòng lịch sử, Giáo Hội luôn hết  sức nghiêm túc lãnh nhận lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy cho họ ăn”. Hoạt động phúc âm hóa của Giáo Hội liên kết một cách vững chắc với việc phân phát lương thực của con người qua những hình thái khác nhau: thực phẩm, sức khỏe, tự do, văn hóa, ý nghĩa cuộc đời v. v.. Cách riêng, lịch sử đời sống tu trì cho thấy nỗ lực làm cho Tin Mừng về Vương Quốc được trở thành hiện thực.

Sứ mệnh của người Sư Huynh đi theo cùng một trào lưu được hai biểu tượng ta chiêm ngắm ở trên. Một đàng, sứ mệnh đó là kết quả của một trái tim biết rộng mở đau khổ với người thiếu thống và những cảnh khốn cùng của nhân loại. Người Sư Huynh nghiệm thấy nơi những con người đó tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng đã sai mình ra đi để thuyên giảm tình cảnh đói khát của họ qua nhiều hình thái; đoàn sủng của thày làm cho thày bén nhậy cách riêng trước một số tình cảnh ấy. Nhưng điều đó chưa đủ. Tối hậu, ơn gọi là được đồng hóa với Chúa Con, người Sư Huynh cảm thấy buộc phải sống như ngài, người anh em giữa những người bé nhỏ nhất. Đó là cách thức hồng ân bậc sống sư huynh thày đã lãnh nhận và đang sống trong cộng đoàn giờ đây cùng thông dự vào sứ mệnh. Đó là hồng ân mà người tiếp nhận cuối cùng ra lại là những người em nhỏ bé mà Đức Giêsu đã đồng hóa ngài với họ. Sứ mệnh đó không phải là “những gì thày làm”, nhưng đúng hơn, là chính đời sống của thày sống hiệp thông với những người bé nhỏ nhất. “Nếu như hồng ân tôi lãnh nhận không cho thấy đó là nguồn đem lại sự hèn hạ, tôi phải trao cho tha nhân không phải cái gì là của mình, nhưng là chính bản thân mình; bản thân tôi phải hiện diện trong ân tặng tôi trao ban”.[73]

Thông dự vào mầu nhiệm Đức Giêsu, “vị Mục Tử Nhân Lành”

28. “… Các anh em Sư Huynh đem lại sự phục vụ quý giá với nhiều loại khác nhau, bên trong cũng như bên ngoài cộng đoàn, như thế thông dự vào sứ mệnh loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng qua đức bác ái trong chính đời sống hàng ngày. Thực vậy, một số việc phục vụ đó có thể được coi là tác vụ của Giáo Hội, được quyền bính hợp pháp phê chuẩn.”[74] Những việc phục vụ này “đều thông dự vào chính tác vụ của Đức Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành, ngài đã hiến ban mạng sống của mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 11), người tôi tớ khiêm hạ hiến ban chính mình không hề giữ lại gì để cứu rỗi tất cả (x. Mc 1, 45).[75]

 Hình ảnh vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như hình ảnh vị Thày quấn khăn, rửa chân cho các môn đệ, không nói về quyền hành mà là sự phục vụ, tình yêu và hy sinh đến độ trao hiến cuộc đời của mình.  Như thế, người Sư Huynh nên hiểu rằng sự phục vụ của mình, dù các phận sự cụ thể nào ủy thác cho mình, đều nằm trong sự liên đới với các anh em của mình.

Trong số các việc phục vụ và tác vụ các Sư Huynh thi hành, một số liên quan tới đời sống nội bộ của Giáo Hội, trong khi số khác lại làm nổi bật tính cách truyền giáo của Giáo Hội. Một số hướng tới những trách vụ mang tính thiêng liêng hơn như là việc phục vụ Lời Chúa và phụng vụ; số khác tỏ lộ sự quan tâm của Giáo Hội về thiện ích vật chất của dân, như là sức mạnh của Chúa Thánh Thần chữa lành và biến cải thế giới.

Thế nào đi nữa, sứ mệnh của người Sư Huynh không chỉ hạn hẹp trong những hoạt động thày thi hành, ngay cả khi đó là việc tông đồ. Sứ mệnh là công cuộc phúc âm hóa mang ý nghĩa toàn diện nhất. “Phúc Âm hóa thực ra là ân sủng và ơn gọi của riêng Giáo Hội, là căn tính sâu xa nhất của mình. Giáo Hội hiện hữu là để phúc âm hóa.”[76] Ta cũng nói y như thế về đời sống thánh hiến và cách riêng về người Sư Huynh: “Vì thế, nhiệm vụ hiến mình hoàn toàn cho “sứ mệnh” được bao gồm trong ơn gọi của họ… Quả vậy, hơn là những công việc bên ngoài, sứ mệnh hệ tại ở việc làm cho Chúa Kitô hiện diện cho thế giới qua chứng tá của bản thân. Đây là thách đố, là nhiệm vụ tiên quyết của đời sống thánh hiến! Những người sống đời thánh hiến sống trong “sứ mệnh” do tự bản chất sự thánh hiến của mình, họ làm chứng cho sứ mệnh đó theo như lý tưởng của Hội Dòng mình.”[77] Trong mối tương quan mật thiết giữa sứ mệnh và thánh hiến, sự hiệp nhất đời sống của một Tu Sĩ được xây dựng, người dấn thân cho một sứ mệnh qua sự thánh hiến của mình và sống sự thánh hiến của mình trong sứ mệnh.

Các hoạt động, ngay cả những hoạt động tông đồ, dầu có khác nhau và có khi không hiển hiện do bệnh tật hay cao tuổi, nhưng sứ mệnh luôn luôn còn đó. Công cuộc phúc âm hóa, được sống và làm cho mãnh liệt qua đoàn sủng cụ thể, chính là lẽ sống của đời Sư Huynh và là cái đem lại ý nghĩa cho sự thánh hiến của thày. Như Đức Giêsu, thày có thể nói: “Vì họ, con hiến thánh mình con” (Ga 17, 19).

Vì thế, đây không phải là vấn đề công việc mà là căn tính, “Tôi là sứ mệnh trên trần gian; đó là lý do tại sao  tôi sống trong thế giới này. Chúng tôi coi mình như đã được đóng ấn, trở thành thương hiệu, với sứ mệnh đem lại ánh sáng, phúc lành, làm sinh động, hồi sinh, chữa lành và giải thoát”.[78] Thừa tác viên đây chính là toàn bộ con người Sư Huynh: thánh hiến, thành viên cộng đoàn, được đồng hóa với sứ mệnh. Toàn bộ con người thày đảm nhận đặc quyền và trách nhiệm là biểu thị Giáo Hội trước vị Mục tử Nhân Lành, đấng đem lại sự sống cho đàn chiên của ngài.

Sứ mệnh đưa tới nguồi mạch: “Đến mà xem”

29. Nỗi khao khát những gì thuộc tâm linh thật là quá rõ trong xã hội ngày nay, nhưng lại có khuynh hướng bị bỏ xó do có quá nhiều thứ thay thế. Như Philip nói cho Natanael, người Sư Huynh chạy đến loan báo rằng mình đã khám phá ra đấng đáp trả được những khao khát thâm sâu nhất của cõi lòng con người; và đối diện với việc người đối thoại không chịu tin, thày phải nói: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1, 45-46). Người phụ nữ xứ Samaria cũng đã đưa ra cùng lời mời gọi như thế cho dân làng của bà sau khi bà đã tìm thấy nguồn nước hằng sống Đức Giêsu cống hiến: “Hãy đến mà xem người đã nói cho tôi mọi sự tôi đã làm. Hẳn ngài là Đức Kitô?” (Ga 4, 29).

Các anh em Sư Huynh cống hiến mình như là người hướng đạo trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa,[79] biết rằng mình có những lúc không nhất quán, nhưng có thể đồng hành với những người đương thời trên hành trình đức tin của họ. Trên bình diện cộng đoàn, các anh em Sư Huynh hoạch định cộng đoàn của mình như là những trường học dạy về nền linh đạo chân thực của tin mừng,[80] và anh em cống hiến mình như là nơi chốn đặc tuyển qua đó những con đường dẫn tới Thiên Chúa được kinh nghiệm.[81] Trong tư cách cộng đoàn, anh em được mời gọi để kêu gọi dân cầu nguyện, tham dự vào cuộc tìm kiếm và kinh nghiệm Thiên Chúa, làm cho việc đọc Thánh Kinh được phổ biến và đào sâu cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa.

Các cộng đoàn chiêm niệm tập trung sứ mệnh của mình vào việc biểu thị những nguồn mạch ấy. Các cộng đoàn này là dấu chỉ tra vấn mạnh mẽ xã hội chúng ta vốn đang xa lìa Thiên Chúa. Đó là nơi chốn gặp gỡ dành cho các người trẻ và người lớn tìm kiếm ý nghĩa sâu xa cuộc đời của họ. Hiện tượng thức tỉnh về tâm linh và việc các người trẻ được lôi cuốn đến những cộng đoàn mang tính cách đại kết như Taizé, hay  các cộng đoàn đan viện và dòng tu nam hay nữ hẳn không phải là sự trùng hợp.

Như thánh Phêrô mời gọi chúng ta (1 Pr 3, 15), mọi anh em Sư Huynh, dẫu sứ mệnh cụ thể của mình là gì, đều phải đảm nhận cuộc sống của mình một cách nghiêm túc như là những chứng nhân về niềm hy vọng mà anh em mang chở nơi mình. Anh em được mời gọi diễn tả niềm hy vọng, hiện diện trong những hoàn cảnh đau đớn và khốn cùng, cho thấy lòng dịu hiền của Thiên Chúa không giới hạn, sự phục sinh của Đức Giêsu là sự bảo đảm sẽ chiến thắng, Thiên Chúa hằng sống sẽ lên tiếng  nói sau cùng trên đau khổ và sự chết, và ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ lau sạch mọi nước mắt (Kh 7, 17) và chúng ta sẽ sống như là những anh chị em.

Sứ mệnh bậc sống sư huynh, tìm kiếm người em bị thất lạc

30. Đặc sủng của các Dòng Sư Huynh thường đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Chúng ta hãy đi qua bên kia bờ” (Mc 4, 35). Đoạn Tin Mừng Marco truyền giao (Mc 4, 35-5, 20) cho thấy Đức Giêsu và các môn đệ đang đi sâu vào những vùng đất dân ngoại để loan báo sứ điệp Nước Trời. Nó cho thấy hoàn cảnh tiêu biểu của đời sống Giáo Hội: trước cám dỗ rút lui vào không gian riêng của mình, Giáo Hội được Thày Chí Thánh thôi thúc vượt qua mọi biên cương. Không gì thuộc về con người mà lại xa lạ với Giáo Hội, và bất kỳ hoàn cảnh nào của con người sẽ luôn luôn là bối cảnh tiềm năng cho Giáo Hội, là nơi chốn thích hợp để loan báo Tin Vui về Nước Trời.

Việc tìm kiếm những người bị vong thân, người xa lạ, người lạc lối, người đến từ một nền văn hóa khác, đã là mối quan tâm mạnh mẽ ngay từ khởi đầu của Giáo Hội và được lập lại như tiếng vang vọng mạnh mẽ trong buổi khởi đầu của các Hội Dòng. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, lối nói “đi đến tận cùng trái đất” chỉ đến nơi chốn mà các môn đệ của Đức Giêsu phải đi tới để loan báo Tin Mừng: “Anh em là chứng nhân của thày … cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Được đoàn sủng của mình khích lệ, các Sư Huynh chấp nhận lời mời gọi này.

Đâu là những biên cương ngày nay? Chúng không còn trùng hợp với những địa danh xa xôi, nhưng đúng hơn là những hoàn cảnh bên lề, những vùng ven trong thế giới. Hiện nay các biên cương nằm ở trong những đất nước nghèo khổ, những đất nước đang phát triển và cũng như ở những khu vực cùng cực của những xứ sở đã phát triển. Các biên cương trùng hợp với thực trạng bi thảm mà rất nhiều người nam và nữ đang sống trong những hoàn cảnh nổi bật về di dân, đói kém, bất công, rửng rưng và thiếu nhạy bén trước nỗi đau của tha nhân, hời hợt và mất đi những giá trị tôn giáo và nhân bản. Được sống chân thực và nhập thể vào thực tại này, ơn gọi của người Sư Huynh sẽ có được một ý nghĩa tuyệt vời.

Thu hút đi đến các biên cương nghĩa là ưu tiên chọn lựa người nghèo khổ, những người sống trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn.[82] Mọi môn đệ Chúa Kitô đều được yêu cầu làm chọn lựa này, bởi lẽ nó thuộc về yếu tính của Tin Mừng.[83] Quả vậy, đó là dấu chỉ Đức Giêsu đưa ra khi ngài được hỏi xem ngài có phải là đấng đang được mong đợi hay không (x. Mt 11, 206). Những người thánh hiến là những người đã tuyên khấn công khai sống theo mẫu mực Đức Giêsu, được mời gọi sống nhất quán trong nỗ lực luôn luôn sống cho người nghèo khổ và, theo như mức độ đoàn sủng của họ đòi hỏi, sống với người nghèo và như người nghèo.

Tin Mừng Luca cho cung cấp cho người Sư Huynh một biểu tượng qua đó thày “nhìn vào chính mình” và được thách đố trên con đường tìm kiếm người anh em đi lạc của mình. Đó là người Samaria nhân hậu (Lc 10, 30-37).Người Samaria đầy lòng thương xót đó đã trở thành cận nhân và người anh em của người đã bị ngã xuống, là dấu chỉ cho tình yêu thương xót của Chúa Cha.

Dấu chỉ Vương Quốc tìm kiếm ơn cứu rỗi toàn vẹn con người

31. Nhiều Sư Huynh thực hiện sứ mệnh của mình khi thi hành một nghề nghiệp trần thế, như phục vụ y tế, giáo dục, trợ giúp di dân, đồng hành với trẻ em và thanh thiếu niên bị nguy hiểm, v. v… Qua đó, các anh em ấy làm chứng rằng sự dấn thân cho Vương Quốc cũng bao hàm nỗ lực xây dựng, tại đây và lúc này, một thế giới nhân bản và đáng sống hơn, và tình yêu Đức Kitô được liên kết với tình yêu con người, cách riêng những thành viên yếu kém và thiếu thốn nhất. Ngày nay hơn bao giờ hết, thế giới cần những con người thánh hiến, đến từ giữa lòng thực tại thế trần và dùng chính đời sống con người làm chứng rằng mình biết và yêu mến Thiên Chúa hằng sống.

Ở đây chúng tôi nói đến trước tiên những công việc lao động chân tay mà nhiều anh em sư huynh thực thi. Các đan sĩ sư huynh, cách riêng nơi những đan viện Bênêđictô, là những khí cụ ở Phương Tây trong việc hồi phục lại phẩm giá và giá trị tích cực của lao động chân tay, mà ngay cả ngày nay, trong một số nền văn hóa, bị coi chỉ thích hợp cho những người thuộc tầng lớp thấp kém hơn. Qua lao động chân tay, các Sư Huynh làm chứng cho giá trị cao quý của lao động, qua đó, con người cộng tác với Thiên Chúa để làm hoàn bị công trình tạo dựng kỳ diệu; các thày trở thành cận nhân của những người anh em đơn thành và đồng hóa người anh em và người lao động với Chúa Giêsu.

Các Hội Dòng Sư Huynh có sứ mệnh liên  kết với việc thăng tiến xã hội và bảo vệ nhân quyền trong các môi trường bị gạt ra bên lề, sự mỏng dòn con người hoặc sự thăng tiến của con người, cống hiến những dấu chỉ ngôn sứ về Vương Quốc mưu tìm cứu rỗi toàn vẹn mọi con người. Việc họ thâm nhập vào các trách vụ và những môi trường này thường mang tính cách cộng đoàn. Như thế, họ làm chứng trong tư cách cộng đoàn huynh đệ có sự liên kết dựa trên Đấng đã kêu gọi và sai họ ra đi. Ngay cả khi do tuổi tác hay hoàn cảnh nào khác, các Sư Huynh không thể tham dự vào những hoạt động nghề nghiệp, sự hiện diện của cộng đoàn thánh hiến trong bối cảnh này là dấu chỉ về con đường và chỉ đến chân trời đem lại ý nghĩa.

Nước Thiên Chúa luôn ở giữa chúng ta. Nước đó được xây dựng ở đây và luôn luôn vượt qua, bởi lẽ nó siêu vượt mọi thành tựu con người. Đó là công việc của Chúa Thánh Thần, Mối căng thẳng cánh chung này được bản vị hóa và được biểu thị trong việc thành hiến và nơi bản thân người Sư Huynh và được làm hiển hiện các riêng trong cộng đoàn anh em Sư Huynh.

III. LÀ SƯ HUYNH NGÀY NAY: CÂU TRUYỆN VỀ ÂN SỦNG

“Hãy lưu lại trong tình yêu của thầy.” (Ga 15,9)

Câu truyện ơn cứu rỗi

32. Ngày nay, làm thế nào các Sư Huynh có thể được nhận ra là dung mạo rõ nét của giao ước, tiếp nối sứ vụ của Người Tôi Tớ Yavê (x. Is 42, 6) và trung thành được với ơn gọi ngôn sứ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa? Làm thế nào các anh em có thể tiếp tục là cuộc tưởng niệm sống động đầy thách đố cho toàn thể Giáo Hội về Đức Giêsu, đấng phục vụ, rửa chân và yêu thương đến độ trao hiến cả mạng sống mình? Liệu các anh em có thể kinh nghiệm được và trân quý sứ điệp của ngài, sứ điệp mà Giáo Hội mong đợi và đòi hỏi nơi các anh em, sứ điệp của bậc sống sư huynh? Nói tắt, là Sư Huynh ngày nay bao hàm điều gì?

Câu trả lời cho những câu hỏi này không dễ dàng hoặc đơn giản, do những khác biệt giữa nhiều Hội Dòng và những hoàn cảnh khác biệt về đời sống tu sĩ trên các đại lục khác nhau.

Đời sống thánh hiến luôn luôn là câu truyện của ân sủng trong Giáo Hội và cho thế giới, “một hồng ân Chúa Cha ban cho Giáo Hội qua Thánh Thần,” hướng cái nhìn của tín hữu về “mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, ngay cả khi vẫn còn đang chờ đợi sự hoàn thành viên mãn trên trời cao.”[84]

Cuộc đời người Sư Huynh là một câu truyện, câu truyện cứu rỗi cho người đương thời và giữa những người nghèo khổ nhất trong họ. “Chúng ta không luôn luôn có thể suy tư cho tương xứng vẻ đẹp của Tin Mừng, nhưng có một dấu chỉ chúng ta không bao giờ thiếu: chọn lựa những người hèn kém nhất, những người bị xã hội ruồng bỏ.”[85] Đặc điểm của các Sư Huynh là lòng họ quan tâm để thành  ân ban của Chúa Cha dành cho những ai họ được sai đến. Họ mang tình yêu phát xuất từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến các anh em mình: “Như Cha đã yêu mến thày, thày cũng đã yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của thày” (Ga 15, 9). Họ được đòi hỏi hãy lưu lại như thế để trở thành một sức mạnh là tình yêu.

Ai là người anh em của tôi?

33. Câu hỏi “Sư huynh hiện nay nghĩa là gì?” giả định câu hỏi sau: “Ai là người anh em của tôi?” Dụ ngôn người Samaria Nhân Hậu nhắc nhở cho chúng ta câu này: Tôi trở thành người anh em cho ai hay vì ai? Câu trả lời từ các Sư Huynh thật là rõ: ưu tiên những ai cần đến sự liên đới của mình và được xác định bởi đoàn sủng hội dòng mình.

Để đem lại sức sống và tính hiện thực cho câu truyện ấy, các Sư Huynh được mời gọi hãy để mình được soi dẫn với một loạt các biểu tượng trong kinh thánh, trong thời kỳ sáng lập và hiện nay, vốn có thể khai mở cuộc sống hàng ngày cho mầu nhiệm tình yêu và giao ước đã được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tỏ lộ.

Hai chương đầu của suy tư này đã tràn ngập những hình ảnh từ Môsê trước bụi gai và người Tôi Tớ Đức Chúa, “giao ước với dân”, cho tới Phaolô ngã quỵ trên đường đi Damascus. Đức Giêsu là biểu tượng trung tâm, mời gọi chúng ta trở thành cuộc tưởng niệm tình yêu của ngài. Loạt hình ảnh ấy cho chúng ta câu truyện vĩ đại của lịch sử cứu độ trong đó  các Sư Huynh được mời gọi hành động, cộng tác vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Những biểu tượng Kinh Thánh này phải được nối kết trước tiên với những biểu tượng thời kỳ sáng lập của mỗi Hội Dòng, vốn nhắc nhở các Sư Huynh ngọn lửa ban đầu họ cần phải khám phá lại. Thứ đến, cùng với những biểu tượng chuyển tải tiếng nói của Thánh Thần ngày hôm nay: những khuôn mặt của các Sư Huynh trong thời gian mới đây đã dâng hiến cuộc đời của mình, đến độ trong những hoàn cảnh tử đạo, sống ở những nơi có xung đột xã hội hay tôn giáo; cũng như với những khuôn mặt của các trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn, người cao tuổi đang sống phẩm giá mình nhờ vào sự nâng đỡ và hiện diện gần gũi của các Sư Huynh.

Có nhiều khuôn mặt nữa đang còn chờ đợi Người Samaria Nhân Hậu đến gần họ, trở thành người anh em của họ, và đem lại sự sống cho họ. Với đôi mắt khẩn cầu, họ xin người Sư Huynh [thông ban] những ân huệ mà thày đã lãnh nhận như là người trung gian và nhằm dành cho họ. Họ mời gọi các Sư Huynh ngày hôm nay, dù tuổi đời thế nào, tạo ra câu truyện ân sủng, sống với niềm đam mê Chúa Kitô và nhân loại. Lo lắng cho sự tồn vong của mình, ngõ hầu câu truyện cứu độ có thể được tiếp tục viết ra quả là một điều đúng đắn, nhưng quan trọng hơn, phải là nỗi khao khát dâng hiến cuộc đời, được chôn vùi như hạt lúa miến, biết rằng Thiên Chúa sẽ làm trổ sinh gấp trăm lần theo cách thức ngài thấy thích hợp.

Đặt nền tảng: đào luyện ban đầu

34. Câu truyện người Sư Huynh hôm nay bắt đầu được viết trong giai đoạn đào luyện ban đầu: chính trong thời kỳ ấy mà một ứng sinh hướng tới lối sống này ý thức về kinh nghiệm của Người Tôi Tớ: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc ôi chưa hào đời, Người đã nhắc đến tên tôi . . .. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh tôi” (Is 49, 1.5). Đặt nền vững chãi trong sáng kiến tự do của Chúa và trong kinh nghiệm bản thân có được về tình yêu nhưng không của ngài,[86] người trong thời kỳ đào luyện bắt đầu tăng trưởng ý thức thuộc về Dân Thiên Chúa, từ dân này và vì dân này mà người đó đã được tuyển chọn.

Việc học hỏi thích đáng giáo hội học hiệp thông sẽ giúp anh sống tương quan với dân là những người sống theo những hình thái cuộc đời mà đời sống Giáo Hội bao gồm.[87] Việc đó cũng sẽ khuyến khích anh kinh nghiệm mình như người anh em với tất cả những anh chị em khác làm nên Dân Thiên Chúa. Anh cũng khám phá và trân trọng những tài năng của mình, không phải như những gì làm mình tách biệt khỏi hoặc nâng mình lên trên những người khác, song như là khả năng mình đã lãnh nhận để góp phần cụ thể vào sự tăng trưởng của Nhiệm Thể Chúa Kitô và sứ mệnh của Nhiệm Thể đó trong thế giới.

“Mọi người trong Giáo Hội được thánh hiến trong Phép Thánh Tẩy và Thêm Sức.”[88] Đào sâu nền tảng chung này và đọc điều đó từ nhãn giới chuyên biệt của đoàn sủng hội dòng, ta khám phá ra ý nghĩa thánh hiến của người Sư Huynh. Trực giác thần học về đặc sủng ẩn dưới ơn gọi của mỗi người phải được ghi nhớ trong thời kỳ đào luyện ban đầu. Trực giác này tỏ lộ cách thức sống tin mừng cụ thể qua sự thánh hiến đặc biệt được cắm rễ trong sự thánh hiến phép Thánh Tẩy và sự phục vụ cho một sứ mệnh đặc thù.

Nuôi dưỡng niềm hy vọng: đào luyện suốt cả đời

35. Các Sư Huynh sống ơn gọi của mình trong thế giới ngày nay bằng nhiều cách thức: một số thì có một mức độ nản lòng và thất vọng nào đó, số khác thì trung thành, an bình, hân hoan và hy vọng. Đào luyện liên tục là cần thiết để khích lệ số người trước, gìn giữ số người sau tiếp tục và đem lại cơ hội cho mọi người sống hiện tại như là thời gian ân sủng và cứu độ (x. 2 Cr 6, 2). Ngày nay, hơn bao giờ hết, đây là đòi hỏi nội tại của đời thánh hiến tu trì,[89] và trong mỗi Hội Dòng, các nhu cầu cần được sắp xếp thời khóa biểu bao có thể một cách chính xác và được hệ thống như một kế hoạch.

Việc đào luyện liên tục các Sư Huynh được tổ chức thế nào để họ có thể sống lại vào thời đại chúng ta hành trình của các vị sáng lập; khám phá và áp dụng vào hiện tại sức năng động đã thôi thúc các vị khởi xướng một hành trình rao giảng tin mừng; tái giải thích đoàn sủng hội dòng trong ánh sáng những thách đố và khả thể, khám phá đoàn sủng đó như cội rễ và lời ngôn sứ và để đoàn sủng đó soi dẫn họ đáp trả những vấn đề của hiện tại.

Mục đích học hỏi suốt đời là cung cấp những nguồn liệu để sống đời sống thánh hiến trong thế giới và trong Giáo Hội ngày hôm nay, cũng như cung cấp những tiêu chuẩn hướng dẫn sự hiện diện của các Sư Huynh trong cánh đồng sứ mệnh. Việc đào luyện này nên hướng dẫn họ biến thành của mình những giá trị đi theo hành động của họ. Việc đào luyện này nên được trình bày như là một tiến trình cộng đoàn phân định ngõ hầu đem lại sự thay đổi cho toàn cộng đoàn chứ không chỉ cho từng cá nhân riêng lẻ.

Nơi nào có thể, việc đào luyện phải được chia sẻ không những với các thành viên của Hội Dòng nhưng còn với những người từ những bậc sống khác thông dự cùng đoàn sủng. Cũng sẽ rất là ích lợi khi thực hiện phần lớn việc đào luyện trong sự phối hợp với những gia đình có mối liên hệ về đoàn sủng mà không bỏ qua những đặc tính chuyên biệt của mỗi ơn gọi.

Sinh động các vị thầy dạy sống và hy vọng

36. Một trường hợp đặc thù là việc đào luyện liên tục các Sư Huynh cao tuổi, những thành viên tích cực trong việc cùng nhau làm nên câu truyện cứu rỗi. Nhiều Sư Huynh thực thi sứ mệnh của mình trong nghề nghiệp trần thế như giáo dục hoặc y tế. Họ cần hiểu rõ trước rằng để có thể tránh được việc về hưu trong công việc có thể đưa tới việc về hưu trong đời tu. Trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không có việc về hưu; ta chỉ tham dự vào sứ mệnh bằng những cách thức khác. Một cách thức, rất là quan trọng, là nâng đỡ sứ mệnh chung bằng cầu nguyện và hy sinh. Cách khác là làm những việc phục vụ nho nhỏ còn có thể cống hiến theo như sức khỏe cho phép, cũng như là chứng nhân và người cổ võ cho việc phục vụ nhưng không.

Sự đóng góp mong đợi từ những người cao tuổi không phải là việc thi hành những trách vụ chuyên biệt nào, nhưng chủ yếu biết cách sống trong cộng đoàn như là những vị thày dạy sống và hy vọng, sẵn sàng đồng hành trên hành trình và nâng đỡ những ai dấn thân vào những trách vụ bên ngoài của sứ mệnh khi họ về hưu. Như thế, họ góp phần vào cộng đoàn phục vụ ngõ hầu cộng đoàn có thể trở thành dấu chỉ ngôn sứ[90] về đức tin, đức ái và đức cậy mà toàn thể xã hội cần đến.

Ngôn sứ cho thời đại chúng ta

37. Mỗi một thời kỳ đều cần những ngôn sứ. Chúng ta đã nói đến những việc phục vụ mang tính ngôn sứ mà các Sư Huynh cống hiến cho xã hội và Giáo Hội ngày nay, để góp phần vào việc nhân bản hóa hơn nữa xã hội và đáp lại việc đi tìm những gì thuộc tâm linh. Chúng ta giờ đây ghi nhận một số những việc phục vụ khác mà thời điểm xã hội có rất nhiều thay đổi ngày nay đang đòi hỏi và tạo nên thách đố cho các Sư Huynh.

  • Ngôn sứ về sự tiếp đón, cởi mở và tiếp nhận người khác, người xa lạ, ngoại nhân, người đến từ một tôn giáo, chủng tộc hay văn hóa khác. Đây là một yếu tố thiết yếu của việc con người cùng hiện hữu, đương đầu với thái độ bất khoan dung, loại trừ hoặc thiếu đối thoại.
  • Ngôn sứ về ý nghĩa cuộc đời. Việc phục vụ đối thoại và ân cần lắng nghe mà nhiều tu sĩ dành nhiều thời gian giúp dân chúng khám phá những gì thiết yếu, đương đầu với sự trống vắng đang hiện diện trong xã hội thịnh vượng.
  • Ngôn sứ khẳng định các giá trị của người nữ trong lịch sử nhân loại. Các nữ tu có vai trò chủ yếu khi cung ứng cái nhìn của nữ giới về cuộc đời, nhờ đó, mở ra những chân trời mới để rao giảng tin mừng nói chung. Các Sư Huynh đóng góp vào việc đào sâu khía cạnh ngôn sứ này qua sự hỗ trợ huynh đệ và trân trọng sự hiện diện của nữ giới, tu sĩ lẫn giáo dân trong việc rao giảng tin mừng.
  • Ngôn sứ chăm sóc và bảo vệ sự sống, tính toàn vẹn của tạo thành. Có những tu sĩ nam nữ liều mạng tố giác những thực hành và chính sách đe dọa sự sống con người và môi sinh. Những người khác dành nhiều thời gian và nghị lực để lao động chân tay gìn giữ thiên nhiên. Với sự thánh hiến, mỗi người theo những cách thức riêng chỉ ra ý nghĩa và giá trị thiêng liêng của sứ mệnh gìn giữ thế giới chúng ta cho các thế hệ tương lai.
  • Ngôn sứ về việc sử dụng khôn ngoan những kỹ thuật mới để đưa chúng vào việc phục vụ truyền thông, phổ biến những thông tin mưu ích cho những người bất hạnh nhất, và làm cho những kỹ thuật này thành khí cụ hữu ích trong trách vụ rao giảng tin mừng.
Như gia đình: là Giáo Hội  một cách mới mẻ

38. Ngày nay các Sư Huynh thường sống ơn gọi của mình trong các gia đình đoàn sủng. Nhiều gia đình này đến từ các truyền thống lâu đời nhưng đã được canh tân sâu xa, trong khi số mới đã xuất hiện như là kết quả của giáo hội học hiệp thông Công Đồng Vaticano II cổ võ. Họ chỉ ra cách thức mới để sống và xây dựng Giáo Hội, một cách thức mới chia sẻ sứ mệnh và tận dụng những ân ban khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban phát giữa các tín hữu. Họ biểu thị “một chương mới, đầy niềm hy vọng … trong lịch sử tương quan giữa những người thánh hiến và giáo dân.”[91]

Các đoàn sủng ban đầu được khai sinh trong các Dòng và Tu Hội giờ đây mặc lấy hình thái của các giòng sông tưới gội Giáo Hội và vươn ra cả bên ngoài Giáo Hội. Các tín hữu đi đến bờ sông từ những tình huống cuộc sống khác nhau để uống lấy giòng nước đó và tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội từ sự soi dẫn được canh tân liên lỉ và từ sức mạnh của những đoàn sủng ấy.[92]

Giáo dân và tu sĩ nam nữ, cùng các linh mục, hiệp nhất với nhau trong một gia đình đoàn sủng để hồi sinh đoàn sủng đã làm nảy sinh ra gia đình này, cùng nhau nhập thể diện mạo Tin Mừng mà đoàn sủng tỏ lộ và cùng phục vụ trong cùng sứ mệnh của Giáo Hội, vốn không còn là sứ mệnh riêng của một Hội Dòng nào.

Người Sư Huynh tìm thấy trong gia đình đoàn sủng mình môi trường đưa tới sự phát huy căn tính của mình. Trong môi trường ấy, các Sư Huynh chia sẻ kinh nghiệm hiệp thông và cổ võ linh đạo hiệp thông, vốn là máu huyết đích thực đem lại sự sống cho thành viên của gia đình và trải rộng ra cho toàn Giáo Hội[93] từ đó. Trong gia đình đoàn sủng ấy, các Sư Huynh đặt mình vào cùng với các Kitô hữu khác và hòa hợp với họ. Chính cùng với họ mà các Sư Huynh xây dựng tình huynh đệ cho sứ mệnh, được thôi thúc bởi đoàn sủng của hội dòng; vì họ, các Sư Huynh là những dấu chỉ của cùng một tình huynh đệ họ được mời gọi sống trong đời sống thánh hiến.

Rượu mới trong bầu da mới

39. Rượu mới thì cần bầu da mới. Trách nhiệm của toàn Giáo Hội là bảo đảm rằng rượu mới này không được mất đi nhưng có thể chín mùi về phẩm chất.

* Các Hội Dòng Sư Huynh được thúc đẩy phát triển những cơ cấu mới và những chương trình đào luyện ban đầu và liên tục vốn có thể giúp cho các ứng sinh mới và những thành viên đương thời tái khám phá và trân quý căn tính của mình trong bối cảnh Giáo Hội và xã hội mới.

* Những Hội Dòng gọi là “hỗn hợp”,[94] mà Tông Huấn Vita Consecrata nói đến, do các linh mục và sư huynh họp thành, được khuyến khích tiến triển hơn nữa hướng tới mục tiêu xác lập giữa các thành viên của dòng cách thức tương quan dựa trên phẩm giá bình đẳng, không có chút khác biệt nào khác hơn là những gì đến từ sự khác biệt về tác vụ. Để cho tiến triển dễ dàng, chúng tôi mong rằng vấn đề liên quan tới quyền tài phán của các Sư Huynh trong những Hội Dòng như thế sẽ được giải quyết với quyết tâm và trong một khung thời gian thích hợp.

* Thần học đời sống thánh hiến được mời gọi phát triển suy tư sâu xá, cách riêng trong chính các Hội Dòng Sư Huynh, về đời sống tu sĩ của các Sư Huynh. Suy tư như thế sẽ được nền giáo hội học và linh đạo hiệp thông, sự thành lập lối sống tu sĩ soi dẫn, vốn đã được phát triển trong Giáo Hội những thế kỷ vừa qua với hình thức các huynh đoàn phục vụ.

* Các mục tử và hàng giáo phẩm của Giáo Hội được khuyến khích cổ võ việc hiểu biết và trân trọng các Sư Huynh trong các Giáo Hội địa phương, tức là cổ võ ơn gọi này, cách riêng trong mục vụ giới trẻ, và bảo đảm rằng các Sư Huynh và Nữ Tu được tham dự tích cực vào các  ban ngành tham vấn, quyết định và thi hành trong Giáo Hội địa phương.

Sợi chỉ xuyên suốt câu truyện: “Hãy lưu lại trong tình yêu của thầy!”

40. Chúng ta có thể kết luận suy tư về căn tính và sứ mệnh của người Sư Huynh đây bằng cách nhớ lại nhiệm vụ Thày Chí Thánh đã giao phó: “Hãy lưu lại trong tình yêu của thày!” (Ga 15, 9). Các Sư Huynh cần lưu tâm rõ ràng trách vụ này khi hết lòng đam mê trở thành các Sư Huynh ngày nay: “Đừng làm mất sợi chỉ câu truyện.” Sợi chỉ dệt nên cuộc đời người Sư Huynh đây chính là kinh nghiệm mình được sai đi làm dấu chỉ cho lòng dịu hiền từ mẫu của Thiên Chúa và tình yêu huynh đệ của Chúa Kitô; đó là sợi chỉ hiệp nhất mọi hành động và các biến cố cuộc đời ngõ hầu làm cho chúng trở thành lịch sử cứu độ. Khi sợi chỉ này mất đi, cuộc đời bị phân mãnh thành những giai thoại không còn quy chiếu về Thiên Chúa và Vương Quốc ngài nhưng chỉ biết quy chiếu về bản thân.

Trong niềm hăng say đáp ứng các nhu cầu của sứ mệnh, các Sư Huynh có thể trở thành nạn nhân cho cám dỗ duy hoạt động, cho rằng cần phải có thật nhiều bánh được chuẩn bị cho người đói khát. Thói duy hoạt động sẽ mau chóng làm họ mất đi động lực Tin Mừng và ngăn cản họ không chiêm ngắm được công trình của Thiên Chúa được thực thi trong hành đọng tông đồ của họ. Để cho mình bị thói duy hoạt động lôi cuốn, họ kết thúc bằng cách thay vì tìm kiếm Thiên Chúa và thánh ý Người, họ lại đi tìm kiếm chính bản thân.

Thật hữu ích khi chiêm ngắn biểu tượng trình bày Martha và Maria được Đức Giêsu viếng thăm nhà (Lc 10, 38-42). Hai chị em sống trong mối căng thẳng với nhau. Họ cần nhau, nhưng sự chung sống đó không luôn luôn dễ dàng. Chia cách họ ra thì không thích hợp; mỗi người có thể chủ trì theo lúc này hay lúc khác. Tuy nhiên, một trong họ chăm chú cách riêng đến ý nghĩa và chiều sâu của cuộc đời mà lời Đức Giêsu đem đến: Maria đã chọn “phần tốt hơn” trong khi Martha “lo lắng và bận rộn nhiều chuyện.”

Thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta khung cảnh hai chị em, chỉ sau câu truyện người Samaria nhân hậu (Lc 10, 30-37), người đã trở thành người anh em cho người kia cần đến mình. Cả hai biểu tượng bổ sung sứ điệp của nhau, và nhắc nhở cho người Sư Huynh về chìa khóa then chốt cho căn tính ngôn sứ của mình, căn tính bảo đảm mình lưu lại trong tình yêu của Đức Kitô: Người Sư Huynh được mời gọi là người truyền giao trong chuỗi dây tình yêu và giao ước đến từ Chúa Cha qua Đức Giêsu và chính mình đã đích thân cảm nghiệm. Trong khi thi hành phận vụ này, cũng như để không được quên rằng mình chỉ là khí cụ được Chúa Thánh Thần thúc đẩy làm việc Thiên Chúa, thày nên luôn nhớ những lời của Đức Giêsu: “Tách ra khỏi Ta, con không thể làm được gì cả.” (Ga 15, 5)

Đức Hồng Y Aviz Joan Braz                      + TGM José Rodriguez Carballo, OFM

Chủ tịch Thánh Bộ                                                              Thư Ký

 

___________________
[1] Trong toàn văn kiện này, chúng ta muốn dùng hạn từ đã được đề xuất trong Tông Huấn Vita Consecrata 69: “Tu Huynh” hoặc “Sư Huynh”. Khi nào cần thiết, chúng tôi sẽ sử dụng từ ngữ tương đương trong số nhiều, bởi lẽ một người chỉ có thể là huynh trong đoàn ngũ những huynh đệ khác, trong bối cảnh huynh đệ, không bao giờ là một mình. Là [Tu] Huynh luôn luôn bao hàm một tương quan, và đó là điều mà chúng ta muốn nhấn mạnh.
[2] x. Gioan Phaolo II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata (25 tháng Ba, 1996), 60.
[3] Tên gọi này được Thượng Hội Đồng về Đời Sống Thánh Hiến đề xuất (tháng Mười, 1994) và được đưa vào trong Tông Huấn Vita Consecrata số 60.
[4]  Gioan Phaolo II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Người Tín Hữu Giáo Dân (ngày 30 tháng Mười Hai, 1989), 19: “Trong Công Đồng Vatican II, Giáo Hội lại đề xuất ý tưởng then chốt này về chính mình (. . .). Nền thần học về Giáo Hội hiệp thông là quan niệm then chốt và căn bẳn trong các văn kiện của Công Đồng.”
[5] x. Christifideles Laici, 8; 19; 32.
[6]  ChL 8; VC 41.
[7] ChL 19.
[8] x. ChL 18; 19.
[9] VC 3.
[10] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Tín Lý Lumen Gentiusm
[11] VC 72.
[12] x. ChL 55; VC 31.
[13] x. ChL 16.
[14] x. Phaolo VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng Mười Hai, 1975), 59.
[15] x. ChL 55.
[16] x. VC 30.
[17] VC 84.
[18] VC 41; 46
[19] LG 13.
[20] VC 33; x. 39.
[21] x. LG 44
[22] VC 84; x. sđd. 15; 21; 25; 42; 51; 80; 92; 105.
[23] VC 39.
[24] x. VC 84-94.
[25] Gioan Phaolo II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte ngày 6 háng Giêng, 2001), 34
[26] x. VC 46, 51; NMI 43.
[27] x. VC 33.
[28] x. VC 16.31.
[29] VC 35.
[30] Công đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Giáo Hội trong Thế Giới ngày nay, Gaudium et Spes. 1.
[31] GS 3.
[32] x. CICLSAL, Huấn thị Tái Khởi Sự từ Chúa Kitô (ngày 19 tháng Năm, 2003).
[33] x. ChL 24.
[34] Đức Thánh Cha Phanxico, Tông Huấn Evangelium Gaudium (Ngày 24 tháng Mười Một, 2013), 99.
[35] VC 60.
[36] VC 60, trích lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II tại Buổi Hội Kiến chung, ngày 22 tháng Hai, 1995.
[37] x. VC 60, NMI 46.
[38] x. VC 75.
[39]  VC 3.
[40] Đức Bênêđicto, Thông Điệp Deus Caritas Est (25 tháng Mười Hai, 2005), 1.
[41] Đức Bênêđicto, Sđd., 1.
[42] ChL 10.
[43] ChL 28.
[44] Sđd.
[45] ChL 13.
[46] VC 30.
[47] VC 22.
[48] x. Ch.L 22; x. LG 10.
[49] x. VC 42.
[50] LG 46.
[51] x. VC 16
[52] x. VC 46.5
[53] x. VC 92
[54] x. CICLSAL, Việc phục vụ của quyền bính và vâng phục, 9.
[55] x. VC 15.
[56] x.  84.
[57] x. VC  73.
[58] CICLSAL, Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, 12.
[59] ChL. 32.
[60] LG 48.
[61] VC 60.
[62] Vatican II, Sắc Lệnh Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, Ad Gentes, 11.2 ; 15.1
[63] CICLSAL, Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, 3
[64] VC 46.
[65] VC 64
[66] x. VC 85
[67] Đức Gioan Phaolo II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới lần 67 (1 tháng Giêng, 1994), s. 5.
[68] VC 92
[69] VC 92.
[70] VC 92.
[71] x. Mt 10, 1; Mc 3, 14-15; 6, 12-13
[72] EN 31
[73] Benedicto, Deus Caritas Est, 34.
[74] VC 60.
[75] ChL 21
[76] EN 14.
[77] VC 72.
[78] Evangelium Gaudium 273.
[79] VC 103.
[80] VC 93.
[81] Đời sống Huynh đệ 20.
[82] x. VX 82; Evangelium Gaudium, 197-201.
[83] Evangelium Gaudium, 48-49.
[84] VC 1
[85] Evangelium Gaudium 195.
[86] x. VC 17.
[87] x. VC 31.
[88] x. VC 31.
[89] x. VC 69.
[90] x. VC 85.
[91] x. VC 54.
[92] CICLSAL, Phát Xuất Lại Từ Đức Kitô, 31
[93] x. VC 51.
[94] x. VC 61.

Bài viết liên quan

spot_img

Dõi theo chúng tôi

Nên Biết

Bài viết ngẫu nhiên

error: Welcome to THE GIOI SALEDIENG