HOA THIÊNG 2022
“KHÔNG CÓ GÌ RÀNG BUỘC, HÃY LÀM TẤT CẢ VỚI TÌNH YÊU”
(Thánh Phanxicô Salê)
Giới thiệu
Trong dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của Thánh Phanxicô Salê: Hai con người phi thường tiếp nối nhau trong đặc sủng Salêdiêng.
Hãy để cha bắt đầu bằng việc nói rõ rằng, cha không có ý định viết một cuốn sách ngắn về cuộc đời của Thánh Phanxicô Salê. Đã có những cuốn tiểu sử tuyệt vời được viết bởi những chuyên gia thực thụ. Điều đó là quá tự tin và chắc chắn nằm ngoài khả năng và dự định của cha. Mặt khác, dưới ánh sáng của hình ảnh sáng ngời của Thánh Phanxicô Salê, qua những trang này, cha chỉ có ý định làm rõ nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của thánh nhân, và về Gia đình Salêdiêng của chúng ta, Gia đình Don Bosco, có nguồn gốc từ nền tảng đó và hàng ngày rút ra từ linh đạo Salêdiêng.
Ngay từ đầu, cha đã nói đến hai nhân vật vĩ đại tiếp nối nhau trong đặc sủng Salêdiêng, vì cả hai đều là một món quà tuyệt vời trong Giáo hội và bởi vì Don Bosco, không giống ai khác, đã biết cách biến sức mạnh tinh thần của Phanxicô Salê thành việc giáo dục và truyền giáo hàng ngày cho các trẻ nghèo của ngài. Và do đó, toàn thể Gia đình Salêdiêng tiếp tục có nhiệm vụ này trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay.
Đây là lý do tại sao cha muốn nói ngay từ đầu rằng “một cách tượng trưng”, cả Phanxicô Salê và Gioan Bosco (Don Bosco) đều có nhiều điểm chung từ lúc còn thơ ấu.
Thánh Phanxicô Salê được sinh ra bên dưới bầu trời của vùng Xa-voa, nơi bao phủ những thung lũng được cắt ngang bởi những con suối chảy lên từ những đỉnh cao nhất của dãy Alps.
Làm sao chúng ta không nghĩ rằng Gioan Bosco cũng là một “người dân vùng Xa-voa”? Ngài không sinh ra trong một lâu đài nhưng được phú bẩm giống như Phanxicô: một người mẹ hiền lành, đầy đức tin. Françoise de Boisy còn rất trẻ khi bà mang thai đứa con đầu lòng, và tại Annecy, trước tấm Khăn Liệm Thánh nói với cô về sự thương khó của Con Thiên Chúa, bà đã vô cùng xúc động và hứa: đứa trẻ này sẽ thuộc về Chúa Giêsu mãi mãi.
Một ngày nọ, Mamma Margaret nói với Gioan: “Khi con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Trinh Nữ.”
Don Bosco cũng sẽ quỳ trước tấm khăn liệm tương tự ở Tôrinô. Các bà mẹ Kitô giáo sinh ra các vị thánh. Trong một lâu đài, như Phanxicô, hoặc trong một ngôi nhà tồi tàn như Gioan.
Họ nói rằng câu đầu tiên mà Phanxicô sử dụng đặt chung với nhau là: “Thiên Chúa nhân từ và mẹ tôi yêu tôi rất nhiều”.
Thiên Chúa nhân từ đã trông chừng Phanxicô và Gioan và ban cho cả hai một trái tim rộng mở. Phanxicô học ở Paris và Padua, trong những trường đại học nổi tiếng nhất thế giới lúc bấy giờ. Gioan nghiên cứu dưới ánh nến trong một hốc tường ở “Caffè Pianta”. Nhưng Thần Khí không bị cản trở bởi những khó khăn nhỏ nhặt của con người. Hai người đã được định sẵn để gặp nhau bằng cách nào đó. Và một ngày nọ, Don Bosco nói với một nhóm người trẻ đã lớn lên với ngài: “Chúng ta sẽ gọi mình là những người Salêdiêng”. Kể từ giờ phút đó trở đi, luôn được Thần Khí dẫn dắt, cây đại thụ của Gia đình Don Bosco, Gia đình Salêdiêng, bắt đầu phát triển.
Thánh Phanxicô Salê là một nhân vật lịch sử, với thời gian trôi qua, đã trưởng thành thực sự và ý nghĩa, nhờ vào việc phổ biến rộng rãi những hiểu biết, kinh nghiệm và niềm tin thiêng liêng của ngài. Bốn trăm năm sau, đề xuất của ngài về cuộc sống Kitô hữu, phương pháp đồng hành thiêng liêng và tầm nhìn nhân học của ngài về mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa vẫn còn hấp dẫn.
Chủ đề được chọn cho Hoa Thiêng cho Gia đình này, luôn trung thành với di sản và truyền thống do chính Don Bosco truyền lại cho chúng ta, đến từ ngòi bút của Phanxicô Salê, người mà ngày nay đang là tâm điểm chú ý của chúng ta trong các dịp lễ kỷ niệm tròn 400 năm ngài qua đời.
Hiến luật của Tu hội Salêdiêng Don Bosco chứa đựng nhiều yếu tố và đặc điểm của linh đạo Thánh Phanxicô Salê. Điều này cũng tương tự đối với các nữ tu Con Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu và nhiều nhóm khác trong Gia đình Don Bosco, vì căn tính của họ có quá nhiều yếu tố Salêdiêng trong đó. Vì vậy, không khó để tìm thấy sự hài hòa và việc áp dụng trực tiếp và liên kết giữa các bản văn được viết bởi Thánh Phanxicô Salê cách đây bốn trăm năm, và những gì thuộc về gia sản tinh thần Salêdiêng của chúng ta như là những đặc điểm nhận dạng của chúng ta.
Cụ thể, như một sự hướng dẫn cho những gì cha đang viết ở đây, cha hướng đến khoản 38 của Hiến luật của Tu hội Salêdiêng Don Bosco, trong đó mô tả các đặc điểm của Hệ thống Dự phòng trong sứ mệnh của chúng ta trong bối cảnh của việc phục vụ giáo dục và mục vụ của chúng ta, và thể hiện bản tóm tắt các khía cạnh mà cha muốn phát triển, gần như là một bản liệt kê được cập nhật để đọc những suy nghĩ của Thánh Phanxicô Salê. Vì vậy, chúng ta đọc:
Để chu toàn việc phục vụ giáo dục và mục vụ này, Don Bosco đã chuyển giao cho chúng ta Hệ thống Giáo dục Dự phòng.
“Hệ thống này hoàn toàn dựa trên lý trí, tôn giáo và lòng thương mến”: không nại tới cưỡng bách, nhưng tới những tiềm năng của lý trí, của cõi lòng và của khát vọng Thiên Chúa, mà mỗi người đều mang trong tâm khảm mình.
Hệ thống này liên kết các nhà giáo dục và thanh thiếu niên vào một kinh nghiệm sống duy nhất, trong bầu khí gia đình, tín nhiệm và đối thoại.
Noi theo sự nhẫn nại của Thiên Chúa, chúng ta gặp gỡ thanh thiếu niên trong chính hiện trạng tự do của chúng, chúng ta sống sát chúng để giúp chúng làm chín mùi những xác tín vững chắc và dần dần biết lãnh lấy trách nhiệm trong tiến trình tế nhị của sự tăng trưởng nhân bản trong đức tin. (HL. 38)
Điều phân biệt Gia đình Salêdiêng của chúng ta trong các xã hội và nền văn hóa đa dạng và khác nhau ngày nay chính là Hệ thống Dự phòng của Don Bosco, có khả năng được áp dụng, được biết đến và được chấp nhận trong những bối cảnh đa dạng nhất. Cha tìm thấy nhiều yếu tố chung trong điều khoản Hiến luật được trích dẫn, và trong những điểm trung tâm của tư tưởng và linh đạo của Thánh Phanxicô, cho phép cha bắt đầu cuộc đối thoại giữa Phanxicô và Don Bosco trên cơ sở những gì chúng ta khám phá được ở đây:
1- Không có gì ràng buộc. Tự do là món quà của Thiên Chúa: → và chính vì điều này mà hệ thống giáo dục của chúng ta thu hút các phương pháp khác “thay vì miễn cưỡng”.
2- Sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi lòng con người: → qua đó chúng ta nhận ra “tình yêu và sự khao khát Thiên Chúa, mà mọi người đều có trong sâu thẳm cõi lòng”.
3- Cuộc sống trong Thiên Chúa: → nơi “qui tụ các nhà giáo dục và những người trẻ đến với nhau [lưu ý: trong văn bản Hiến luật tiếng Ý ở đây bao gồm cụm từ: “in un’unica esperienza di vita” được dịch theo nghĩa đen là “một kinh nghiệm độc đáo của cuộc sống”. Điều này đã được bỏ qua trong văn bản tiếng Anh].
4- Đối xử tử tế và thân thiện với mọi người: → dẫn đến việc sống với những người trẻ của chúng ta “với kinh nghiệm gia đình về sự tin tưởng và đối thoại”.
5- Tình yêu thương vô điều kiện và không bị ràng buộc: → khiến trong gia đình chúng ta có thể có được rằng bằng cách “Noi gương sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, chúng ta gặp gỡ những người trẻ ở giai đoạn tự do hiện tại của họ”.
6- Với nhu cầu về một người hướng dẫn thiêng liêng: → do đó “chúng ta sau đó đồng hành với người trẻ, để họ có thể phát triển niềm tin vững chắc”.
7- Cuối cùng hãy làm “Tất cả với tình yêu”: → để “dần dần gánh vác trách nhiệm đối với quá trình trưởng thành mong manh của người trẻ như những con người và những người có đức tin”.
– – –
1- Không có gì ràng buộc. Tự do là món quà của Thiên Chúa
Đây là lý do tại sao hệ thống giáo dục của chúng ta thu hút các phương pháp khác “khác với sự ràng buộc”.
“Lòng bác ái và sự tử tế của Thánh Phanxicô Salê sẽ hướng dẫn tôi trong mọi việc.” Tại chủng viện ở Chieri, Don Bosco có cơ hội làm quen với các tác phẩm cơ bản của Thánh Phanxicô Salê. Một trong những quyết tâm của Don Bosco trước khi thụ phong linh mục đã gieo vào lòng ngài một hình mẫu không chỉ cho các hoạt động mà còn cho cả cuộc sống của ngài. Lòng bác ái và sự tử tế mà Thánh Phanxicô Salê đã biểu hiện trong các mối tương quan với mọi người trong suốt cuộc đời của ngài, tạo nên một tác động khó cưỡng lại đối với Don Bosco, nơi đã ghi dấu ấn trong suốt quãng đời còn lại của ngài, bắt đầu từ giấc mơ 9 tuổi của ngài: “Không bằng cú đấm cú đá”.
“Không có gì ràng buộc” là một đề xuất tuyệt vời, một lời mời gọi để biến nó thành một món quà quý giá trong cuộc sống cá nhân của chúng ta.
Đó là sự hướng dẫn, khi chấp nhận một nhiệm vụ, để xác định thái độ mà một người thực hiện một sứ mệnh, một trách nhiệm hoặc một việc phục vụ cho người khác. Đó là điều duy trì và tạo nên sự nhất quán cho lựa chọn này, cách sống này với tư cách là Kitô hữu, phù hợp với quyết định của chính Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên chúng ta và khiến chúng ta được tự do.
Tất cả chúng ta đều đã có kinh nghiệm rằng khi mọi thứ bị áp đặt, không có lý do, không có “lý do tại sao”, chỉ đơn giản là áp đặt và ràng buộc, chúng sẽ không tồn tại lâu dài; hoặc chúng chỉ tồn tại trong khi mệnh lệnh vẫn còn. Thiên Chúa không hành động theo cách này và Thánh Phanxicô Salê đã trải nghiệm điều này trong hoạt động mục vụ của mình. Là một giám mục thuộc công đồng Tren-tô và là người cổ vũ cho phong trào phản cải cách của Công giáo được nêu ra trong cuộc đấu tranh chống lại đức tin lãnh đạm thờ ơ, ngài đã chọn cuộc sống của trái tim chứ không phải sự ràng buộc. Và tất cả những gì ngài đang làm là suy ngẫm và sống theo thái độ của Thiên Chúa. Ngài đã viết như vậy cho người con thiêng liêng của mình: “Giống như một người cha tốt lành nắm tay người con của mình, ông sẽ thích ứng với những bước đi của con và sẽ vui sướng khi cùng nhịp bước với con.”
Đối với Thánh Phanxicô Salê, một người theo trường phái nhân bản, tự do là yếu tố quý giá nhất của mỗi cá nhân. Thực tại Nhập thể là lý do cao cả nhất để khẳng định phẩm giá này. Có thể nói rằng Thiên Chúa không chỉ tạo ra chúng ta theo hình ảnh và giống Ngài, mà còn trong Chúa Kitô, chính Thiên Chúa – đây là những lời của Thánh Phanxicô Salê – “đã tạo nên hình ảnh và giống chúng ta”. Sự vĩ đại này của con người, giá trị của con người với tư cách là một cá nhân, được thể hiện ở sự tự do khiến con người có trách nhiệm. Đối với Thánh Phanxicô Salê, tự do là phần quan trọng nhất của con người vì nó là sự sống của trái tim. Nó có giá trị và phẩm giá cao đến nỗi chính Thiên Chúa, Đấng đã ban nó cho chúng ta, không đòi hỏi nó bằng vũ lực, và khi Ngài yêu cầu chúng ta, Ngài muốn chúng ta trao nó cho Ngài với sự chân thành và sẵn lòng. Thiên Chúa “không bao giờ bắt ai phải phục vụ mình và sẽ không bao giờ làm như vậy.”
Sự can dự của Thiên Chúa, ân sủng của Ngài, không bao giờ diễn ra nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Ngài hành động một cách mạnh mẽ, nhưng không bao giờ bắt buộc hay hạn chế, thay vào đó, để lôi cuốn trái tim, không xâm phạm, nhưng vì tình yêu đối với tự do của chúng ta. Sự tự do mà Thiên Chúa ban cho con người luôn được tôn trọng. Thiên Chúa, như Thánh Phanxicô Salê đã nói, lôi kéo chúng ta đến với chính ngài thông qua sáng kiến tốt lành của ngài, đôi khi như một tiếng gọi hoặc một lời mời gọi, đôi khi là tiếng nói của một người bạn, như một nguồn cảm hứng hoặc lời mời, và đôi khi là “sự dự phòng” bởi vì ngài luôn nhìn thấy trước. Thiên Chúa không bao giờ áp đặt chính ngài: Ngài gõ cửa và đợi chúng ta mở.
Theo cách tương tự, Don Bosco, trong các mối tương quan với những người trẻ bất hạnh và nghèo khổ nhất tại Valdocco, đã học cách làm theo lý lẽ của trái tim trong việc chấp nhận và đồng hành với chúng trong quá trình giáo dục của chúng. Việc thực hiện lòng nhiệt thành mục vụ, mong muốn cứu rỗi các linh hồn, cam kết cho sự phát triển toàn diện của các học sinh của mình, được thực hiện mà không ép buộc, không áp đặt, luôn luôn thông qua việc thanh thiếu niên chấp nhận đề nghị tham gia vào mối quan hệ hữu nghị này bởi vì trong trái tim chúng, chúng cảm thấy rằng chúng được yêu thương, rằng có ai đó đang nghĩ đến điều tốt đẹp của chúng và muốn chúng được hạnh phúc.
Tự do của con người sẽ luôn là một giá trị cần được bảo vệ, ngay cả khi các giá trị khác phát huy tác dụng như đức tin, công lý và sự thật. Đối với chúng ta, Gia đình Don Bosco, đây là điều căn bản. Chúng ta không tin rằng có thể giáo dục mà không có sự tôn trọng thiêng liêng đối với tự do của mỗi cá nhân. Nơi tự do của cá nhân không được tôn trọng, Thiên Chúa vắng bóng. Đây là lý do tại sao, theo Thánh Phanxicô Salê, Thiên Chúa thu hút mọi người qua tình yêu của ngài theo cách phù hợp nhất với bản chất của chúng ta. Đây là cách thánh nhân đưa vào văn bản tuyệt vời này:
Sự kết tụ của ý chí con người là niềm vui và sự vui thích. Thánh Augustine nói: Chúng ta cho một đứa trẻ thấy những điều yêu thích, và em bị lôi cuốn bởi tình yêu của mình; em bị cuốn hút bởi những mối liên kết, không phải bởi thể xác mà bởi trái tim. Sau đó, hãy ghi khắc, cách Thiên Chúa Cha Vĩnh Hằng lôi kéo chúng ta: trong khi giảng dạy, Ngài khiến chúng ta say đắm, không áp đặt chúng ta bất cứ điều gì cần thiết… Bàn tay của Thiên Chúa điều khiển trái tim chúng ta thật ngọt ngào! Thật là khéo léo khi nó truyền đạt cho chúng ta sức mạnh của nó mà không tước đi quyền tự do của chúng ta, và thúc đẩy chúng ta chuyển động sức mạnh mà không cản trở ý chí của chúng ta! Ngài điều chỉnh sức mạnh của ngài với sự ngọt ngào theo kiểu như vậy về sự tốt lành thì sức mạnh của ngài ngọt ngào mang lại cho chúng ta, vì vậy sự ngọt ngào của ngài mạnh mẽ duy trì sự tự do của ý chí. Đấng Cứu Độ của chúng ta đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống… Theo suy nghĩ, cảm nghĩ ngăn cản chúng ta, và thậm chí trước khi chúng nghĩ đến việc tự cảm nhận, nhưng sau khi chúng ta cảm thấy chúng thì chúng ta cũng phải đồng ý với chúng để tán thành và theo dõi sự hấp dẫn của chúng, hoặc thứ khác để bất đồng quan điểm và đánh bại chúng. Chúng khiến chúng ta tự cảm thấy chính chúng mà không có chúng ta, nhưng chúng không khiến chúng ta đồng ý nếu không có chúng ta.
Như Thánh Phanxicô Salê viết, Thiên Chúa thu hút giống như loại nước hoa mà Diễm tình ca cất lên. Nỗ lực kết hợp giữa tự do của con người và sự hấp dẫn của Thiên Chúa diễn ra một cách nhẹ nhàng. Sức mạnh thu hút của Thiên Chúa, mạnh mẽ nhưng không bạo lực, nằm ở sự hấp dẫn ngọt ngào của Ngài, và hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa không có gì đáng ghen tị với tình yêu của con người đối với các tạo vật trong kinh nghiệm thiêng liêng mà Thánh Phanxicô Salê đã sống và chia sẻ. Không có tình yêu nào làm trái tim chúng ta xa rời Thiên Chúa ngoại trừ những gì trái ngược với Ngài. Khác xa với tình yêu dành cho người khác, kinh nghiệm thần bí của Salêdiêng, tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta đang nói đến, đòi hỏi điều đó.
Và vì vậy chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người, đồng thời muốn điều thiện của chúng ta và ban cho chúng ta rất nhiều dấu chỉ tình yêu của Ngài. Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ điều đầu tiên trong số này là sự tôn trọng vô điều kiện của ngài đối với tự do của chúng ta. Tình yêu sẽ biến mất nếu nó tìm cách áp đặt hoặc đòi hỏi, và ở đây là cường độ mà Thánh Phanxicô Salê trình bày hình ảnh tích cực của một vị Thiên Chúa yêu thương, Đấng ban tặng tình bạn của ngài, Đấng cho những điều tốt lành và để chúng ta có chỗ tự do để đáp lại nó ngang qua việc tương giao với Ngài.
Điều này cũng khai sáng cho chúng ta về việc quan tâm và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của mỗi cá nhân. Như Thánh Phanxicô Salê đã làm, một sự hiện diện thân thiện giữa những người ngoài Công giáo, một sự hiện diện mà chúng ta hiểu như một hình thức truyền giáo thông qua chứng tá, một sự hiện diện mà đôi khi phải bình tĩnh, thinh lặng, tôn trọng, sẽ hoàn toàn hợp lệ vì nó là không chỉ dựa trên nguyên tắc bất bạo lực mà quan trọng hơn là tôn trọng sâu sắc quyền tự do của mọi người.
Chúng ta xác định rất rõ cách thức hiện diện này mà Thánh Phanxicô Salê đã thực hành trong các khu vực xung đột do các cuộc xung đột tôn giáo vào thời của ngài, cung cấp một bằng chứng tiên tri về sự kiên nhẫn và kiên trì với phong cách tập trung vào thập giá của Chúa Kitô và lời cầu bầu của Mẹ Maria.
Sự hiện diện của chúng ta với tư cách là một Gia đình Salêdiêng ở rất nhiều nơi trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn hình thức hiện diện này.
Và chắc chắn, khám phá di sản của Thánh Phanxicô Salê và tìm cách áp dụng linh đạo của Ngài vào những tình huống thực tế của thời đại chúng ta sẽ là cách tốt nhất để phát triển trong “Linh đạo Salêdiêng”.
2- Sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi lòng con người
Chúng ta nhận ra “sự khao khát Thiên Chúa, mà mọi người đều có trong sâu thẳm của cõi lòng.”
Nói rằng “Không có gì miễn cưỡng” không chỉ là một chiến lược hay phương pháp mà trên hết là sự tin tưởng sâu sắc của niềm hy vọng và niềm tin nơi con người – chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo – mà Thánh Phanxicô đã có, lội ngược dòng, và Don Bosco đã có thể phát triển một cách tuyệt vời nhờ sự lạc quan và hoàn toàn tin tưởng vào những người trẻ, vào những cậu bé của ngài: nhân loại, người trẻ, mỗi cá nhân, mỗi người chúng ta, đều mang những nhu cầu đến Thiên Chúa, khao khát Ngài, “hướng về Thiên Chúa cách tự nhiên”, ghi khắc vào con người chúng ta. Khát vọng tự nhiên được nhìn thấy Thiên Chúa được biến đổi trong các vị thánh của chúng ta thành niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện diện và làm cho chính mình hiện diện với mỗi cá nhân trong những khoảnh khắc của cuộc đời họ mà chính Thiên Chúa chọn lựa và theo cách mà chỉ mình Ngài biết.
Những nguyên tắc thần học này, rất hiện thực đối với chúng ta, được thể hiện cụ thể trong thái độ thiêng liêng sâu sắc của Salêdiêng về sự cộng tác với hành động của Thiên Chúa: phục vụ con người trong tinh thần tự do đã hình thành nơi Thánh Phanxicô Salê trong sự lạc quan, tích cực, niềm tin vào bản tính con người, và do đó, trong giá trị của tình bạn và khả năng tìm kiếm hạnh phúc.
Từ hình ảnh tích cực này của Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta tình bạn của Ngài, yếu tố này soi sáng linh đạo Salêdiêng sống động do Don Bosco đề xuất thật dễ dàng để hiểu rằng: “Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến hơn là sợ hãi.” Don Bosco, cha của chúng ta, theo Thánh Phanxicô Salê, muốn Thiên Chúa được yêu thương hơn là sợ hãi, và nếu “kính sợ Thiên Chúa” là cách một người bước đi trong sự thánh thiện, thì đó không phải là vì sợ một hình phạt khủng khiếp, mà là sự kính sợ được kết hợp mật thiết với sự tin tưởng vào sự tốt lành của Thiên Chúa.
Khác xa với việc gieo rắc sự bi quan, tiêu cực hay sợ hãi, sự hiện diện của Thiên Chúa, khao khát gặp gỡ Thiên Chúa, ước muốn tình bạn với Ngài và điều đó được đáp lại, là nền tảng của linh đạo Salêdiêng. Trái ngược với những người coi Thiên Chúa như người bảo vệ trấn áp những hành vi vi phạm luật pháp, hoặc như một vị Thiên Chúa xa cách và thờ ơ, Thánh Phanxicô Salê cho thấy Người là vị Thiên Chúa quan tâm đến các thụ tạo và hạnh phúc của họ, luôn tôn trọng tự do của họ và cam kết hướng dẫn họ với sự kiên định và dịu dàng.
Thánh Phanxicô Salê chia sẻ ý tưởng của Aristotle rằng có một khát vọng hạnh phúc nơi mỗi người, một sự chuyển động hướng tới mục tiêu đó, một khát vọng tự nhiên chung cho toàn thể nhân loại. Nhưng đồng thời, từ kinh nghiệm cá nhân, thánh nhân nhận thức được rằng cách tiếp cận đầu tiên để đạt được hạnh phúc bao gồm việc chấp nhận bản thân, chấp nhận con người của chúng ta, bởi vì hạnh phúc có thể bị nhầm lẫn với các phương tiện đạt được nó. Một số người tìm kiếm hạnh phúc trong sự giàu có, những người khác tìm thấy trong niềm vui, một số khác trong vẻ huy hoàng lộng lẫy của con người. Trên thực tế, đối với Thánh Phanxicô Salê, chỉ có điều thiện tối cao mới có thể thỏa mãn trọn vẹn cõi lòng con người. Điều tốt lành tối cao là Thiên Chúa, Đấng mà cõi lòng con người hướng đến một cách tự nhiên. Thánh nhân đã học được từ các giáo viên triết học của mình rằng “hạnh phúc thực tế” bao gồm sở hữu trí tuệ, sự trung thực, lòng tốt và niềm vui, nhưng “hạnh phúc thực chất” của con người chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa. Là một môn đệ của Thánh Tôma Aquinô, thánh nhân tin tưởng vào khả năng trí tuệ và ý chí của con người trong việc trực tiếp hoặc khám phá ra Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu. Những lời tự thuật của Thánh Augustinô xuất hiện trong tâm trí, tổng hợp một cách kỳ diệu những ý tưởng này và với điều đó, Thánh Phanxicô Salê đã soạn ra một số bài giảng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và cõi lòng chúng con vẫn mãi thổn thức cho đến khi được nghỉ ngơi trong Chúa” (Tự thuật, I, 1.1).
Nhưng khuynh hướng mà chúng ta cảm thấy tự nhiên hướng tới Thiên Chúa không thể tự mình mà có, vì đó là món quà của Thiên Chúa; Ngài luôn chủ động. Thánh Phanxicô Salê cung cấp cho chúng ta niềm xác tín trong linh đạo của ngài rằng mặc dù chúng ta có xu hướng hướng đến hạnh phúc – được đồng nhất với cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và không thể đạt được điều này một mình – nhưng Thiên Chúa vẫn cam kết trao ban điều đó cho chúng ta vì đây là điều Người muốn. Và lời hứa viên mãn này, cùng với ước muốn trong chúng ta đối với Thiên Chúa, được kêu gọi để sinh nhiều hoa trái.
Chúng ta có thể hiểu rằng tầm nhìn về thần học và nhân học của Thánh Phanxicô Salê cho phép chúng ta giữ cho cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí được cân bằng chính xác – và điều này cũng rất quan trọng đối với chúng ta ngày nay. Trong thời kỳ của mình khi Thánh Phanxicô Salê đang trò chuyện với những kẻ thù của mình (người mà ngài gọi là anh em), ngài vẫn khẳng định rằng việc chấp nhận Thiên Chúa là điều tốt lành tối cao được tìm thấy trong lý trí, trong chính bản chất con người. Không giống như những người chỉ dựa vào Kinh Thánh, Thánh Phanxicô Salê cho thấy lý trí và đức tin bắt nguồn từ cùng một nguồn, và là tác phẩm của cùng một Tác giả, chúng không thể trái ngược nhau. Thần học không phá hủy việc sử dụng lý trí nhưng vận dụng nó; không hủy bỏ mà hoàn thành.
Đây là bối cảnh mà trong đó Thánh Phanxicô Salê phát triển suy tư và linh đạo của mình. Ngày nay, chúng ta phải tiếp tục duy trì năng lượng tinh thần này đã mang lại nhiều ánh sáng cho cuộc sống của rất nhiều người trong việc tìm kiếm hạnh phúc và cuối cùng là tìm kiếm chính Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Salê và Don Bosco, mỗi người trong thời đại của mình, đã sống với niềm xác tín mạnh mẽ này và để lại di sản cho chúng ta. Thánh Phanxicô Salê đã viết: “Không có đất nào khô cằn mà sự tận tâm của người nông dân không thể làm cho nó trở nên mầu mỡ”. Và vì vậy, ngài đề xuất một yếu tố cơ bản khác của linh đạo và phương pháp sư phạm Salêdiêng: sự kiên nhẫn, không gì khác hơn là sự noi gương lòng kiên nhẫn mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đây cũng là một sự trung kiên trong cuộc đời của Don Bosco.
Ngày nay, với tư cách là một gia đình cùng chia sẻ trong linh đạo này, chúng ta phải tiếp tục tin tưởng và củng cố nguồn lực của trí tuệ, trái tim và lòng khao khát của chúng ta đối với Thiên Chúa khi đương đầu với bất kỳ khó khăn nào. Chắc chắn công việc này đòi hỏi một hồ sơ cụ thể và được xác định rõ ràng về nhà giáo dục Salêdiêng sở hữu và mạnh mẽ bảo vệ bên trong mình niềm xác tín rằng điều tốt đẹp luôn ẩn náu trong cõi lòng mỗi người, mỗi người trẻ, dù điều đó có thể bị che khuất – như Don Bosco cũng đã tin – và rằng mọi trái tim con người đều có khả năng gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta tiếp tục việc giúp đỡ mọi người trẻ và mọi cá nhân khác trên con đường này.
3- Cuộc sống trong Thiên Chúa:
“qui tụ các nhà giáo dục và thanh thiếu niên với nhau” trong một trải nghiệm độc đáo của cuộc sống.
Thánh Phanxicô Salê đã trình bày đời sống thiêng liêng như một điều gì đó có sẵn với mọi người. Thuật ngữ đáng chú ý mà ngài dùng để chỉ đời sống Kitô hữu trong Thiên Chúa là “sự tận hiến”, như một biểu hiện của tình yêu đối với Thiên Chúa, một tình yêu không độc chiếm.
Thánh Phanxicô Salê không tìm thấy sự đối lập nào trong việc muốn hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa trong khi sống trọn vẹn hiện hữu của mình trong thế giới. Có lẽ đây là đề xuất độc đáo và mang tính “cách mạng” nhất của thánh nhân.
Nếu sự tận hiến là tình yêu dành cho Thiên Chúa trước bất cứ điều gì khác, thì đó cũng là tình yêu thương đối với người thân cận, và sự tận hiến này phải được mọi người thực hiện trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Không nhất thiết phải rút lui khỏi thế giới, đi vào sa mạc hay tu viện để sống một đời sống Kitô hữu chân chính.
Trong sách Giới thiệu về Đời sống Sùng đạo, khi nói chuyện với bất kỳ ai, sử dụng cái tên đầy thi vị “Philothea’, [người muốn yêu Thiên Chúa], ngài đã trình bày cách sống của một Kitô hữu giữa thế giới, cho thấy rằng cần phải sử dụng đôi cánh của mình để đạt được đỉnh cao của việc cầu nguyện, đồng thời sử dụng đôi chân của mình để cùng nhau bước đi với những con người khác trong cuộc trò chuyện thân thiện và thánh thiện.
Nhưng trên thực tế, tất cả sự tận hiến chân chính và sống động bao hàm tình yêu của Thiên Chúa; – và thực sự nó không hơn không kém một tình yêu rất chân thực của Thiên Chúa, mặc dù không phải lúc nào cũng như nhau; vì Tình yêu đó chiếu sáng tâm hồn mà chúng ta gọi là ân sủng, khiến chúng ta được chấp nhận trước Bệ kiến tôn nhân; – khi tình yêu ấy củng cố chúng ta làm tốt, nó được gọi là Đức ái; – nhưng khi nó đạt đến sự hoàn hảo nhất, trong đó nó không chỉ khiến chúng ta làm điều tốt lành, nhưng phải hành động cẩn thận, siêng năng và kịp thời, thì đó được gọi là Sự tận hiến […] Nói tóm lại, sự tận hiến chỉ đơn giản là một hoạt động tinh thần và sự sống động bằng cách mà Tình yêu Thánh thiêng hoạt động trong chúng ta, và khiến cho chúng ta để làm việc nhanh nhẹn và dễ thương; và cũng như lòng bác ái dẫn chúng ta đến việc thực hành cách chung tất cả các Điều Răn của Thiên Chúa, vì vậy lòng tận hiến dẫn chúng ta đến việc thực hành chúng một cách sẵn sàng và siêng năng. Và do đó, chúng ta không thể gọi anh ta là người sao lãng việc tuân theo tất cả các Điều Răn của Thiên Chúa, dù là tốt lành hay sùng đạo, bởi vì để trở nên tốt lành, một người phải tràn đầy tình yêu thương, và để mộ mến, anh ta phải rất sẵn lòng và có khả năng thực hiện những việc làm của tình yêu.
Cha không thể phớt lờ việc trích dẫn ở đây một số dòng rõ ràng và hiệu quả nhất của Tác giả của chúng ta đề cập đến niềm tin rằng mỗi cá nhân đến thế giới này theo một kế hoạch cá nhân của Thiên Chúa dành cho họ; một kế hoạch hạnh phúc và thực hiện đầy đủ thánh ý của Thiên Chúa cho mỗi thụ tạo của Ngài. Trong phần Giới thiệu về Đời sống Sùng đạo, khi nói về nhu cầu mỗi người phải tìm, trong tình trạng cuộc sống của họ, cách tốt nhất để trao hiến vinh quang cho Thiên Chúa, khi đối thoại với Philothea, Thánh Phanxicô Salê nói:
Mỗi người đều phải thực hiện một sự tận hiến khác nhau – người quý tộc, nghệ nhân, người hầu, hoàng tử, thiếu nữ và bà lão; và hơn nữa, cách làm đó phải được sửa đổi tùy theo sức lực, sự mời gọi và nhiệm vụ của mỗi cá nhân. Cha hỏi con, con của cha, có phù hợp không khi một Giám mục nên tìm cách sống một cuộc sống đơn độc của một người Carthusian? Và nếu người cha của một gia đình không quan tâm đến việc chuẩn bị cho tương lai với tư cách là một Capuchin, nếu người nghệ nhân dành cả ngày trong nhà thờ như một nhà Tu hành, nếu một nhà Tu hành tự tham gia vào mọi hoạt động kinh doanh thay mặt cho người hàng xóm của mình với tư cách là một Giám mục được kêu gọi thực hiện, chẳng phải một sự tận hiến như vậy sẽ là buồn cười, thiếu nguyên tắc và không thể chịu đựng được sao? Tuy nhiên, một sai lầm như vậy vẫn thường xảy ra, và thế giới, vốn không thể hoặc sẽ không phân biệt giữa sự tận hiến thực sự và sự thiếu thận trọng của những người ưa thích bản thân sùng đạo, càu nhàu và cảm thấy có lỗi với sự tận hiến, điều này thực sự đáng lo ngại về những sai sót này.
Con đường này dẫn đến một nền thần học Kitô giáo về ơn gọi, trong đó mỗi người tự thực hiện quá trình tìm kiếm ơn gọi của mình, phù hợp với điều đã được Công đồng Vatican II khẳng định: tất cả các tín hữu, các Kitô hữu đang trong các trạng huống khác nhau, được củng cố bởi rất nhiều và rất nhiều phương tiện mạnh mẽ của sự cứu rỗi, được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người theo cách riêng của mình, đạt tới sự hoàn thiện của sự thánh thiện mà chính Chúa Cha là Đấng hoàn thiện. (xem LG, 11)
Cả Thánh Phanxicô Salê và Don Bosco đều làm cho cuộc sống hàng ngày trở thành biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa được đón nhận và cũng được đáp lại trong sự trao đổi. Các vị thánh của chúng ta muốn đem mối quan hệ với Thiên Chúa đến gần hơn với cuộc sống và cuộc sống gần hơn với mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là đề xuất về “sự thánh thiện của người thận cận” hay “sự thánh thiện của tầng lớp trung lưu” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với chúng ta với rất nhiều sự yêu mến. “Cha thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện hiện diện trong sự kiên nhẫn của dân Chúa: nơi những bậc cha mẹ nuôi dạy con cái bằng tình yêu thương bao la, nơi những người nam và người nữ làm việc chăm chỉ để nuôi gia đình, nơi những người bệnh tật, nơi những người tu trì cao niên luôn nở nụ cười trên môi. Trong sự kiên trì hàng ngày của họ, cha thấy được sự thánh thiện của chiến binh Giáo hội. Thông thường, đó là sự thánh thiện được tìm thấy ở những người hàng xóm bên cạnh của chúng ta, những người đang sống ở giữa chúng ta, phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là ‘tầng lớp trung lưu của sự thánh thiện.’”
Giống như Don Bosco, chúng ta ngày nay cũng phải là những chuyên gia trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này là đồng hành với giới trẻ trong việc tìm kiếm ơn gọi và sự thánh thiện của họ, cũng như tự mình thực hiện điều này. Có lẽ đây là điều họ đang đòi hỏi chúng ta cách cấp bách nhất, và họ đang cần nó như thế nào! Chúng ta vẫn còn nghe thấy tiếng vang gần đây của lời kêu gọi dành cho Giáo hội trong Thượng Hội đồng về những người trẻ yêu cầu, trong số những điều khác, được đồng hành trong việc phân định ơn gọi của họ. Tông huấn Christus Vivit của Đức Thánh Cha Phanxicô, tìm cách đáp lại giới trẻ, cũng là một thách thức đối với chúng ta với tư cách là một Gia đình Salêdiêng:
Có nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân và người thánh hiến, và những người trẻ thực sự đủ phẩm chất, những người có thể giúp người trẻ nhận thức về ơn gọi của họ. Khi chúng ta được kêu gọi giúp người khác nhận ra con đường của họ trong cuộc sống, điều quan trọng nhất là khả năng lắng nghe.
Và như vậy, gần như bằng chính đôi tay của mình, chúng ta chạm vào một yếu tố cơ bản khác trong linh đạo của chúng ta: sự hiện diện và lắng nghe, chính xác là để giúp tất cả những người đến với chúng ta, những người chúng ta tiếp cận, thiết lập một mối quan hệ của tình bạn, một cuộc gặp gỡ của sự gần gũi, một cái gì đó điều đó một lần nữa có được hương vị Salêdiêng là đặt người trẻ, con người, làm trung tâm. “Da mihi animas” của Don Bosco, trước đó là Thánh Phanxicô Salê, vẫn còn đầy đủ giá trị cho đến ngày nay.
Thánh Phanxicô Salê đã định hướng đời sống mục vụ của mình theo hướng hoàn thành sứ mệnh được giao phó. Chính sự tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa đã dẫn dắt thánh nhân tham gia vào sứ mệnh cứu độ của Đức Kitô là Mục Tử Nhân Lành. Bắt đầu với kinh nghiệm cá nhân của mình về tình yêu của Thiên Chúa, ngài cảm thấy rằng tình yêu nồng nhiệt này, hay còn gọi là nhiệt thành yêu thương, được chuyển thành niềm vui trước sự hoán cải của tội nhân và nỗi buồn trước sự cứng lòng của những ai từ chối lời mời này. Đây là cách đọc đặc biệt của da mihi animas của Thánh Phanxicô Salê.
Chúng ta sẽ thực hiện tốt lòng nhiệt thành tông đồ và lòng bác ái của Thánh Phanxicô, giống như ngài, nếu chúng ta giữ cho cuộc sống của mình bám rễ vững chắc trong Chúa Kitô. Chỉ bằng cách này, hoạt động tông đồ mới có thể có kết quả, bởi vì nó được thực hiện bắt đầu từ nhu cầu chúng ta cảm nghiệm để thông truyền tình yêu mà chúng ta cảm thấy mình được yêu thương. Tuy nhiên, một lần nữa, sự kính trọng tuyệt vời đối với Thánh Phanxicô Salê nhân dịp 400 năm cái chết của ngài sẽ là sự đổi mới và trong một số trường hợp, sự phục hồi năng lượng tông đồ của da mihi animas – coetera tolle, hiến mình cho Thiên Chúa và người trẻ với cùng lòng đức ái mục tử mà ngài và Don Bosco đã có.
Linh đạo Salêdiêng của Don Bosco, so với các chiều hướng linh đạo khác mà một số chuyên gia gọi là “trừu tượng”, nằm ở những ranh giới rất khác nhau vì nó được truyền cảm hứng bởi một bậc thầy như Thánh Phanxicô Salê, đề xuất một linh đạo cho cuộc sống bình dân. Trong một diễn tả về hạnh phúc được cho là của thánh nhân, người ta nói rằng “chúng ta phải phát triển mạnh mẽ những gì Thiên Chúa đã gieo trồng nơi chúng ta”. Đây là đặc điểm cơ bản của linh đạo Salêdiêng: nó thực tế. Học cách yêu quý hoàn cảnh của chúng ta, chấp nhận cuộc sống như nó vốn có, và yêu mến nó như một biểu hiện của việc chấp nhận Thánh ý Thiên Chúa, có vẻ là một việc thụ động, nhưng không phải vậy khi thực hành nhân đức, làm điều thiện, chu toàn bổn phận, những điều của cuộc sống hàng ngày, ở nơi mà sự quan phòng của Thiên Chúa đã gieo trồng chúng ta, và có lẽ là nơi mà chúng ta không phải lúc nào cũng muốn trở thành, hoặc có lẽ đã muốn trở thành. Đó là chuẩn bị tâm hồn để đón nhận thánh ý Thiên Chúa.
Người ta nhớ ngay rằng đây là linh đạo do chính Don Bosco đề xuất cho các cậu bé của ngài và cho những người Salêdiêng. Chẳng hạn hành vi hành xác của Đaminh Saviô.
“Cha đã khiến con bị ràng buộc thực sự. Thiên Chúa nói rằng nếu con không sám hối, con sẽ không được lên thiên đàng. Con bị cấm làm bất kỳ việc đền tội nào; Con có cơ hội nào trên thiên đường?”
“Sự sám hối mà Chúa Giêsu muốn nơi con là sự vâng phục hoàn toàn; tuân theo và thế là đủ.”
“Con có thể làm một số việc đền tội khác không?”
“Đúng vậy, con có thể cho phép mình sám hối khi kiên nhẫn với người khác và những điều khó chịu của cuộc sống; hãy sẵn sàng chấp nhận cái nóng, cái lạnh và mưa gió; vui vẻ khi mệt mỏi và cảm thấy không được khỏe và bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn ban cho con.”
Đaminh Saviô nói: “Nhưng những điều này đến với cha cho dù cha muốn hay không.”
Cha trả lời, “Chính xác, sẵn lòng dâng chúng cho Thiên Chúa; không có gì có thể làm hài lòng Ngài hơn, và con sẽ thực hiện việc đền tội.”
Như vậy là đã yên tâm, Đaminh Saviô rất vui sướng và hoàn toàn bình an.
Gia đình Salêdiêng của chúng ta đã đón nhận cách sống của mình trong mối quan hệ với Thiên Chúa qua việc chu toàn bổn phận, với sự hiểu biết rằng đây là cách chúng ta đáp lại, tham gia và cộng tác với Thiên Chúa trong hành động sáng tạo của Người và với Chúa Kitô trong việc xây dựng Nước Trời.
Don Bosco cổ vũ và sống những đặc tính của một lối sống bình dị, thân mật, liên tục trong mối quan hệ với Thiên Chúa với những người trẻ và những người Salêdiêng của Ngài. Nó tương ứng với cách của Thánh Phanxicô Salê đề xuất việc thực hành các nhân đức hàng ngày, nhưng các nhân đức tương ứng với tình trạng và địa vị của một người, không phải của người khác. “Khi Thiên Chúa tạo dựng thế giới, Ngài ra lệnh cho mỗi cây sinh hoa trái tùy theo loại của nó; và thậm chí Ngài cũng ra lệnh như thế với các Kitô hữu, – những cây sống của Giáo hội Ngài, – để sinh hoa trái của sự tận hiến, mỗi người tùy theo bản tính và ơn gọi của mình.”
4- Đối xử tử tế và thân thiện với mọi người:
vốn dẫn tới việc sống với các thanh thiếu niên “trong một bầu khí gia đình, tín nhiệm và đối thoại”.
Thánh Phanxicô Salê được mọi người biết đến trên hết vì ngài thật hiền dịu và tốt lành. Trong một lá thư ngài viết:
Tôi yêu mến cách riêng ba nhân đức nhỏ bé này: trái tim hiền lành, tinhthần nghèo khó và đời sống giản đơn. Và cũng vậy, những thao dợt đòi hỏi hơn: thăm viếng người bệnh, phục vụ người nghèo, an ủi kẻ sầu khổ và những người giống như thế, nhưng mọi sự không có chút nào bạo lực, mà là trong sự tự do chân thật.
Những người nghiên cứu cuộc đời và nhân cách của ngài đồng ý nói rằng tính chất thân thiện và đáng yêu của ngài không phải là một cái gì tự phát, giống như nó đã không như thế nơi Don Bosco. Thánh Phanxicô Salê đề xuất noi gương Đức Giêsu Kitô, hiền lành và khiêm nhường trong lòng như một khuôn mẫu để bắt chước và ta có thể nói rằng sự hiền dịu là nhân đức đặc trưng của ngài. “Tuy nhiên, sự hiền dịu của ngài hoàn toàn khác với tính lịch thiệp nhân tạo vốn hệ tại ở việc có được những kiểu cách bóng bẩy và trong việc tỏ ra một sự nhã nhặn thuần tuý mang tính quy ước. Nó cũng khác với sự lãnh đạm vốn không thể bị khuấy động bởi bất kỳ sức mạnh nào và cũng khác với tính nhút nhát vốn không dám trở thành phẫn nộ, ngay cả khi sự phẫn nộ được đòi hỏi ở một người. Nhân đức này tăng trưởng trong lòng thánh Phanxicô như một hiệu quả tốt đẹp của tình yêu ngài dành cho Thiên Chúa. Nó được nuôi dưỡng bởi tinh thần cảm thương và dịu dàng; với sự ngọt ngào nó đã làm dịu đi tính trang nghiêm tự nhiên trong các hành xử của ngài; nó làm dịu đi giọng nói lẫn cách cư xử mà ngài chiếm được cái nhìn cảm mến của mọi người mà ngài gặp gỡ.”
Chính sự hiền dịu này cũng thu hút Don Bosco từ ban đầu trong công cuộc mục vụ của ngài; nó cũng đặc trưng hoá phong thái giáo dục của ngài khi tương quan với các thiếu niên. Hôm nay từ Roma, suy tư về sự hiền dịu và tử tế cho phép chúng ta trực giác một vài tâm tình mà chính Don Bosco đã có với các thiếu niên và ngài đã truyền lại, không phải không có đau đớn, trong lá thư gởi ngày tháng Năm 1884 cho các Salêdiêng. Ngài nhắc nhớ chúng ta: “Ước chi đức ái của những người ra lệnh và đức ái của những người phải vâng phục khiến cho tinh thần của thánh Phanxicô Salê ngự trị giữa chúng ta.” Don Bosco dạy chúng ta rằng sự chấp nhận, sự chân thành, lịch sự, sự dịu hiền, kiên nhẫn, tình mến, tin tưởng, dịu dàng, hiền lành là những diễn đạt của tình yêu vốn sinh ra sự tin tưởng và sự thân tình. Chính trong môi trường này, linh đạo Salêdiêng chúng ta được khai sinh, phong phú trong sự thông cảm và xót thương, trong sự tiếp nhận và khả năng chờ đợi cách kiên nhẫn giới trẻ lớn lên.
Như thánh Phanxicô Salê, Don Bosco muốn sống với sự hiền lành và khiêm nhường của trái tim Đức Giêsu (Mt 11:29). Trong giấc mơ lúc 9 tuổi ngài nhận được một mệnh lệnh từ “Vị Tôn Sư/Thầy”, giữa đám đông dê, chó, mèo, gấu và những loại thú khác: “Đây là cánh đồng con phải làm việc. Hãy làm cho con nên khiêm nhường, mạnh mẽ và nghị lực. Điều con sẽ thấy xảy ra cho các con thú này trong chốc lát là điều con phải làm cho các con cái của Ta.” 30Điều rất cảm động là trong những kỷ niệm xa xưa này được ghi lại trong Hồi ký Nguyện xá thánh Phanxicô Salê, mà Don Bosco viết ra vì vâng lời, có một sự ưu tiên cao cả dành cho thái độ khiêm nhường để nhờ nó đối diện những khó khăn.
Đối với thánh Phanxicô Salê, những phẩm tính là sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chính là sự trợ giúp duy nhất mà ngài có trong sứ vụ của ngài ở miền Chablais; nơi đây, như một nhà truyền giáo, ngài thực thi một tác vụ mục tử diệu kỳ và là một khuôn mẫu cho phong thái tông đồ ngày nay. Theo một cách thức rất khác biệt với những nhà truyền giáo khác, vốn làm cho mình bị sợ hãi, thánh Phanxicô Salê thu hút nhiều ruồi bằng một thìa mật ong thông thường hơn là bằng một thùng đầy dấm.
Tinh thần tử tế, dịu dàng và hiền lành này được thấm sâu vào các Salêdiêng đầu tiên, vì nó thuộc về truyền thống cổ xưa nhất của chúng ta. Mọi sự chỉ ra rằng chúng ta không thể xao nhãng nó, hay thậm chí ít hơn nữa là nếu đánh mất nó, có nguy cơ làm phương hại trầm trọng đến căn tính đoàn sủng chúng ta. Chính cách thức trong đó tinh thần tốt lành và tử tế này được chuyển giao và thông truyền giữa chúng ta, có thể được thấy trong cuộc đời của những thiếu niên đã trở thành các người Salêdiêng, chính bởi vì họ đã kinh nghiệm những nét thân tình, chào đón, tử tế và kính trọng được cống hiến bằng việc sống với Don Bosco và các Salêdiêng đầu tiên ở Valdocco. Thực thế, trong những ngày thuở ban đầu ấy, đã có một cuộc nói chuyện về “lời khấn thứ tư Salêdiêng”. Lời khấn ấy hệ tại ở sự tử tế, làm việc và Hệ thống Dự phòng.
Khi liên kết chứng từ này với chứng từ được những chứng nhân trong giấc mơ trong lá thư từ Roma, đặc biệt Valfré, để lại cho chúng ta, cậu xuất hiện trong giấc mơ đó và đã ở Nguyện xá trước 1870, chúng ta đọc thấy:
Đấy là một quang cảnh đầy sức sống, đầy chuyển động, đầy vui nhộn. Một số chạy chơi, số khác nhảy cao, số khác nữa nhảy dây […] Góc này, một đám thiếu niên quy tụ quanh một linh mục, chăm chú vào từng lời của ngài khi ngài kể chuyện cho chúng. Ở góc khác một tư giáo đang chơi với một nhóm trẻ rượt bắt […] Cha có thể thấy rằng sự chân thành và tín nhiệm lớn nhất ngự trị giữa các thiếu niên và bề trên […] sự gần gũi dẫn tới tình mến và tình mến đưa tới tin tưởng […] chính điều này mở rộng cõi lòng.
Chúng ta không thể tưởng tượng một sự hiện diện Salêdiêng khắp thế giới, một sự hiện diện của các Con Đức Mẹ Phù hộ, của các Salêdiêng Don Bosco hay 32 nhóm làm nên Gia đình Salêdiêng Don Bosco, mà không có đặc tính hiền dịu này như yếu tố phân biệt, hay ít nhất chúng ta phải có nó, như Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhớ chúng ta qua lối diễn đạt soi sáng của ngài: “sự chọn lựa Valdocco”.34 Chúng ta chọn lựa phong thái Salêdiêng là sự dịu hiền, yêu thương, thân tình và hiện diện. Chúng ta có một kho tàng, một tặng phẩm được nhận từ Don Bosco, mà nay chúng ta có bổn phận làm sống lại.
Trong Hiến chương về căn tính đoàn sủng của Gia đình Salêdiêng, chúng ta thấy rằng tình mến và lòng mến thương Salêdiêng là nét đặc trưng thuộc căn tính của Gia đình Salêdiêng.
Lòng mến thương của Don Bosco chắc chắn là điểm đặc trưng của phương pháp sư phạm của ngài và vẫn được coi là còn giá trị cho ngày hôm nay, cả trong bối cảnh Kitô giáo lẫn trong bối cảnh của những người trẻ thuộc về các tôn giáo khác.
Tuy nhiên, lòng thương mến này không được giản lược thành một nguyên lý sư phạm nhưng cần được nhìn nhận như là một cấu tố thiết yếu trong linh đạo của chúng ta.
Quả thật, đấy chính là tình yêu chân thực bởi vì được bắt nguồn từ sức mạnh Thiên Chúa. Đó là tình yêu biểu lộ qua ngôn ngữ đơn sơ, thân tình và trung tín; đó chính là tình yêu khơi dậy nỗi khao khát đáp trả; đó chính là tình yêu mời gọi sự tín nhiệm, mở ra mối tương quan tín cẩn và hiệp thông thật sâu xa (“giáo dục là vấn đề của cõi lòng”); đó chính là tình yêu lan toả và trong cách thức này tạo nên được một bầu khí gia đình, trong đó ở bên nhau quả thực là rất đẹp đẽ và làm phong phú thêm cho nhau.
Thánh Phanxicô Salê lôi kéo dân chúng đến với mình qua sự tử tế của ngài. Thánh Vinh Sơn Phaolô miêu tả ngài là người tuyệt nhất tái hiện Con Thiên Chúa sống trên trần. Ngài đã học từ Đức Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cõi lòng này của Đức Giêsu có ý nghĩa sâu xa đối với thánh Phanxicô Salê và đối với Don Bosco. Tình yêu Thiên Chúa, đã trở nên xác phàm, tìm thấy nơi trái tim nhân loại của Đức Giêsu sự diễn đạt tình yêu hùng hồn nhất. Khởi từ sự tự do mà nhờ đó Thiên Chúa tạo dựng nhân loại, qua sự hiền lành, sự tốt lành và tình mến như cách Thiên Chúa đối xử với con cái mình, chúng ta đạt tới lõi tuỷ của linh đạo Salêdiêng, mà cũng là khuôn mẫu của hữu thể và đời sống chúng ta: tình yêu.
Đối với nhiều người trẻ, kinh nghiệm được ghi nhớ nhất về sự gặp mặt Gia đình Salêdiêng trong thế giới rất thông thường là nét gia đình, là sự chấp nhận và tình mến mà qua đó họ cảm nhận mình được đối xử. Nói tắt, đó là tinh thần gia đình.
Nơi thánh Phanxicô Salê, khả năng yêu thương và dễ mến này, sự trao hiến chính mình này, đến từ đâu? Hẳn nhiên, từ sự chắc chắn thâm sâu ngài đạt được sau khi vượt qua hai cuộc khủng hoảng mãnh liệt; chúng làm ngài cảm nhận mình bất xứng với tình yêu Thiên Chúa. Thực thế, kinh nghiệm khủng hoảng và tăm tối đó, mà tất cả chúng ta có thể đã trải nghiệm, cũng là điều mà những vị thánh khác cũng đã trải qua, như Têrêsa Avila, Têrêsa Calcutta, Gioan Thánh giá, v.v…. Nơi thánh Phanxicô Salê sự thanh luyện một niềm hy vọng được sinh ra; nó khiến tin tưởng không phải vào công trạng của mình, nhưng vào chính Thiên Chúa tốt lành và rất mực xót thương. Thánh Phanxicô Salê chuyển động theo hướng của “tình yêu tinh ròng”, một tình yêu vốn yêu mến Thiên Chúa vì chính Ngài. Thiên Chúa không yêu chúng ta bởi vì chúng ta tốt lành, nhưng bởi vì Ngài tốt lành, và chúng ta không yêu Thiên Chúa bởi vì chúng ta muốn được một điều gì đó tốt lành từ Ngài, nhưng bởi vì chính Ngài là sự thiện cao cả nhất. Ta không đạt đến sự chu toàn ý Thiên Chúa qua những tình cảm “về sự bất xứng”, nhưng qua hy vọng vào lòng thương xót và sự tốt lành của Thiên Chúa. Đây là tính lạc quan Salêdiêng. Viễn cảnh này dẫn chúng ta mạnh mẽ chống lại bất kỳ ý tưởng nào trình bày Thiên Chúa là Đấng phi lý và báo thù, và thay vào đó chấp nhận Thiên Chúa được Đức Giêsu mặc khải – một Thiên Chúa là chính niềm thương xót và tình yêu – và chiêm ngắm cõi lòng của thánh Phanxicô Salê nới rộng ra sao khi ngài tri nhận Thiên Chúa yêu thương vô biên. Vì thế, khi ngài nói cho chúng ta về tình yêu Thiên Chúa, ngài nói từ chính kinh nghiệm của mình. Đây là câu chuyện của chính ngài. Vì vậy, với tình yêu Phanxicô Salê đáp lại tình yêu Thiên Chúa. Ngài thốt lên lời minh xác chân thành rất sâu xa sau đây trong lời cầu nguyện thật sự cảm động:
Lạy Chúa, bất kỳ điều gì xảy ra, Ngài đều nắm giữ mọi sự trong tay và lối đường của Ngài là chính trực và chân lý: bất kỳ điều gì Ngài sắp đặt cho con về án lệnh tiền định và sự kết án đời đời: những phán quyết của Ngài là cả một vực thẳm sâu vời vợt; Ngài mãi mãi là vị thẩm phán chí công và cũng là người cha đầy lân ái. Con yêu ngài, lạy Chúa, ít nhất trong cõi đời này nếu Ngài không ban cho con được yêu Ngài trong đời sống vĩnh cửu; con yêu Ngài ít nhất ở dưới thế này, lạy Thiên Chúa của con. Con sẽ luôn hy vọng vào lượng xót thương hải hà của Ngài; con sẽ luôn lặp lại lời ca tụng Ngài, bất chấp mọi sự mà thần sứ Satan tiếp tục khởi hứng con đối nghịch lại. Lạy Chúa Giêsu, Ngài sẽ luôn là niềm hy vọng và ơn cúu độ của con trong cõi đất của kẻ sống. Nếu, bởi vì lối sống của con đòi buộc con phải bị nguyền rủa giữa những kẻ bị nguyền rủa là sẽ không thấy được khuôn mặt/dung nhan dịu hiền của Ngài, thì ít nhất xin ban cho con biết rằng con sẽ không bao giờ ở giữa những kẻ nguyền rủa Danh thánh thiện của Ngài.
Cuộc khủng hoảng của thánh Phanxicô Salê mặc khải phần sâu nhất của con người ngài: một cõi lòng yêu mến Thiên Chúa sâu xa. Khi noi gương Đức Kitô trong vườn Cây Dầu, thánh nhân hiểu rằng sự luỵ phục bỏ ý riêng mình là tột đỉnh của tình yêu tinh tuyền. Một câu trả lời như thế chỉ có thể được trao ban từ tình yêu tinh ròng; nó chỉ nảy sinh từ trung tâm cao cả nhất của tinh thần mà thôi. Nó là một tình yêu anh hùng dựa trên sự bền đỗ/kiên trì và hy sinh vì người được yêu. Đức Giêsu, trong cơn hấp hối trong vườn Dầu, là khuôn mẫu của chúng ta về điều này: “Nhưng không phải con muốn gì mà là Cha muốn gì.” (Mc 14, 36).
Niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa không dựa trên việc cảm thấy mình tốt lành, nhưng trên việc thi hành ý Chúa Cha, là lõi tuỷ trong linh đạo của thánh Phanxicô Salê và phải là khuôn mẫu cho toàn thể Gia đình của Don Bosco. Thánh Phanxicô Salê diễn đạt điều này cách chói ngời bằng cách ám chỉ tới nhu cầu phải chuyển từ những an ủi của Thiên Chúa đến chính Thiên Chúa của mọi niềm ủi an, từ nhiệt tình tới tình yêu chân thật, khi vẫn trung thành giữa những thử thách; chuyển từ việc phải lòng (trong tình yêu) tới tình yêu chân thật đối với những người khác. Một tình yêu tinh tuyền, vô vị lợi không tìm gì cho chính mình, ly thoát khỏi bản ngã. Thiên Chúa, Đấng muốn tất cả được cứu độ, chỉ cho chúng ta rằng tình yêu hoàn hảo đuổi xa sợ hãi. Hãy làm mọi sự vì yêu mến, không làm gì vì sợ hãi, bởi vì chính lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không phải công trạng chúng ta, thúc đẩy chúng ta yêu mến.
Khởi từ linh đạo Salêdiêng này, đối với chúng ta, khám phá tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa quả là quan trọng. Tình yêu ấy đúng là trung tâm của tất cả năng động lực của đức ái cũng như nhiệt tình mục vụ đối với người khác mà trước tiên thánh Phanxicô Salê, và sau này Don Bosco, đều khai triển như thế một cách tuyệt diệu.
5- Tình yêu vô điều kiện và không bị ràng buộc:
“bắt chước sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, chúng ta gặp gỡ giới trẻ trong trạng huống tự do hiện tại của chúng.”
Sự thánh thiện thì dành cho mọi người, đó là yếu tố cốt yếu trong đề xuất thiêng liêng của thánh Phanxicô Salê, dựa trên tình yêu Thiên Chúa, cho mỗi con người và tất cả mọi con người. Chính trong sự sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, tình yêu này có một khuôn mẫu vững chắc để bắt chước và đi theo. Cùng với sự hiền lành và khiêm nhường, theo gương Đức Kitô trong Vườn cây Dầu, sự bắt ý riêng của ta luỵ phục chính là đỉnh cao của tình yêu tinh tuyền. Yêu mến là một hành vi của ý chí, một hành vi của sự từ bỏ mà trong đó ta chọn ý Thiên Chúa muốn.
Thánh Phanxicô Salê nhắc đến cõi lòng hơn 300 lần trong cuốn Luận về Tình Yêu Thiên Chúa. Là một người theo thuyết nhân bản Kitô giáo, ngài tiếp tục nói đến con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa; và nơi con người, ngài tìm thấy “sự hoàn hảo của vũ trụ”:
Con người là sự hoàn hảo của vũ trụ; tinh thần là sự hoàn hảo của con người; tình yêu là sự hoàn hảo của tinh thần; và đức ái là sự hoàn hảo của tình yêu. Do đó, tình yêu Thiên Chúa là cùng đích, là sự hoàn hảo và sự tuyệt hảo của vũ trụ. Hỡi Theotimus, sự vĩ đại và sự tối thượng của lệnh truyền yêu mến Thiên Chúa hệ tại ở đây, và Đấng Cứu thế gọi là điều răn thứ nhất và lớn nhất.
Cõi lòng hữu thể nhân linh (nam và nữ), cả khi nó hoang đàng xa rời khỏi sự thiện hảo, thì ý chí vẫn luôn luôn bị lôi kéo tới sự thiện, bởi vì đây là chính cách thức Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta, và nếu Ngài không giúp chúng ta với sự quan phòng của Ngài, ân sủng và tình yêu của Ngài, chúng ta không thể đạt tới Thiên Chúa bởi chính sức mạnh của riêng mình, chỉ dựa vào bản tính con người mà thôi. Hướng chiều tự nhiên về sự thiện, sự mỹ và sự thật có lẽ đủ để chúng ta bắt đầu lên đường, để đặt chúng ta khởi hành; và chính ở đó, hoạt động của Thiên Chúa nơi chúng ta, ân sủng Ngài, vốn không bị từ chối cho bất kỳ ai tìm kiếm nó, giúp đỡ và hướng dẫn chúng ta.
Nếu thánh Augustinô nói rằng “lòng chúng con chẳng nghỉ an cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”, thì bằng cách đi theo triền tư duy của thánh Phanxicô Salê, chúng ta có thể nói cùng với von Balthasar “Lạy Chúa, cõi lòng Ngài chẳng nghỉ yên cho đến khi chúng con nghỉ yên trong Ngài, và thế là thời gian và vĩnh cửu chìm vào nhau.”
Trong truyền thống Salêdiêng, chúng ta tìm thấy vô vàn thí dụ về lòng sùng mộ dành riêng cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, cả nơi Phanxicô Salê lẫn Gioana de Chantal, và cách riêng nơi một trong những Nữ tu Thăm Viếng, thánh Magarita Maria Alacoque; và đến thời của Don Bosco thì Đức Giáo hoàng Piô IX,42 đấng tuyên chânphước cho Magarita Maria Alacoque và năm 1877 tuyên bố thánh Phanxicô Salê là vị tiến sĩ của Giáo hội, đã đặc biệt thúc đẩy lòng sùng kính này bởi. Kỷ nguyên của Don Bosco được ghi dấu bởi lòng sùng kính Thánh Tâm Đức Giêsu và từ khi cha chúng ta hoàn tất xây dựng vương cung Thánh đường Thánh Tâm theo yêu cầu của Giáo hoàng Piô IX, Gia đình Salêdiêng được nối chặt với Tình yêu của Đức Giêsu được diễn đạt trong Thánh Tâm đó. Có lẽ đây là một điểm khác nữa về sự giống nhau và sự tiếp chạm giữa thánh Phanxicô Salê và Don Bosco: Trung thành với Giáo hội và với sứ mệnh công bố Tin mừng, khi đặt Đức Kitô ở tại trung tâm của hoạt động mục vụ để đạt tới mọi người. Không phải là phi lý khi xác định Vương cung thánh đường Thánh Tâm ở Roma như một “đền thờ quốc tế”, giống như “Tibidabo” ở Barcelona và nhiều thánh đường khác được dâng cho Thánh Tâm Đức Giêsu khắp thế giới Salêdiêng và, dĩ nhiên, trong toàn Giáo hội.
Trong Thánh Tâm Đức Giêsu có sự hiện diện nhập thể sống động của tình yêu Thiên Chúa và ý Ngài muốn cứu chuộc thế giới. Điều này đảm bảo chúng ta rằng lời cuối cùng của Thiên Chúa trong thế giới là Ngài, là tình yêu. Đức Giáo hoàng hưu Bênêdictô XVI, trong thông điệp Deus Caritas Est quý báu và thông suốt của ngài, đã miêu tả Đức Giêsu như sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa, là sự tỏ lộ Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử nhân loại; tỏ lộ ấy tìm được sự diễn đạt cao cả nhất của nó trong Đức Giêsu:
Khi Chúa Giêsu nói trong các dụ ngôn của Ngài về người mục tử đi tìm chiên lạc, về người đàn bà tìm đồng tiền đánh rơi, hay về người cha gặp gỡ và ôm đứa con hoang đàng vào lòng, những lời này không chỉ đơn thuần như thế: chúng cấu thành lời giải thích cho chính Ngài và hành động của Ngài. Cái chết của Ngài trên thánh giá là tột đỉnh của việc Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, trong đó, Ngài trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi con người. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất. Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu của Chúa Kitô (x 19,37), chúng ta có thể hiểu được điểm khởi hành của Thông Điệp này “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Chính đó là điểm để chiêm niệm chân lý này. Định nghĩa tình yêu của chúng ta cần phải bắt đầu từ đó. Trong sự chiêm niệm này, người Kitô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo.
Bản tóm lịch sử này về lòng sùng kính Thánh Tâm dẫn chúng ta tới trung tâm của linh đạo chúng ta. Không có sự tốt lành nào, không có sự tận hiến nào cho người nghèo khổ, không có sự hiền dịu hay tự do, không có đức ái hay bất kỳ nét nào chúng ta đã trình bày, nếu thiếu vắng nguồn mạch nguyên thuỷ của Thiên Chúa Tình Yêu. Chính tình yêu chứ không phải tội lỗi giải thích Thiên Chúa tự do quyết định nên nghĩa thiết với nhân loại và để trở nên một người giữa chúng ta. Vậy chúng ta hiểu rằng sự Nhập thể, việc trở nên người, Thiên Chúa đã muốn từ muôn thuở. Nó không phải là một loại kế hoạch “b” mà Thiên Chúa sáng nghĩ ra bởi vì con người phạm tội. Dù cho không có tội từ đó để cứu chuộc chúng ta, Thiên Chúa vẫn trở nên người phàm. Thánh Phanxicô Salê xác tín sâu xa điều này. Hơn nữa, sự nhập thể không chỉ là một sự kiện lịch sử, nhưng là một sự kiện liên lỷ, siêu hình và hữu vị. Thiên Chúa nhập thể vào lịch sử chúng ta, qua sáng kiến tinh tuyền và tự do của Ngài.
Vì vậy việc tông đồ và tận hiến của chúng ta cho sứ mệnh mặc lấy ý nghĩa sung mãn của chúng, như một sự noi gương Đấng trao ban sự sống mình vì yêu chúng ta; yêu thương theo cùng một cách thức, với sự trao tặng đời sống mình, với sự khiêm nhường đó mà thánh Phanxicô Salê gọi là “đức ái hạ cố”, đi vào trong tương quan với những người khác, bằng việc, vì tình yêu, làm cho chính chúng ta thành nhỏ bé với những người bé nhỏ, để nâng họ lên. Đây là “sự xuất thần”, đi ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác trong một thái độ phục vụ như Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ (Ga 13): “Đức Giêsu đã kêu gọi họ đến với Ngài và nói… “Ai muốn là đầu giữa anh em, thì phải là tôi tớ anh em, giống như Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:27-28).
Chúng ta có thể đọc tình cha của Don Bosco trong ánh sáng của Lời Chúa và theo gương sáng của Thánh Phanxicô Salê. Đó là một diễn đạt tình yêu vô điều kiện ngài dành cho những người trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm.
Trong linh đạo Salêdiêng chúng ta, lòng sùng mộ và đời sống thiêng liêng không tách khỏi việc tông đồ và việc thực thi đức ái. Vì lẽ này, bên cạnh đền thờ Thánh Tâm, Don Bosco muốn có một trung tâm giáo dục và đào tạo cho các thiếu niên của ngài; một ngôi nhà mà, như nhà ở Valdocco và như tất cả những nhà khác khắp thế giới, sẽ là một mái ấm cho những thiếu niên nghèo khổ nhất. Là những sân chơi ở đó chúng có thể gặp gỡ các bạn hữu. Đây là cách thức mà lòng sùng mộ chân thật, vốn dẫn tới thực thi đức ái cho người lân cận, được làm nên đầy đủ và được hiện thực tròn đầy. Don Bosco muốn tình yêu đối với Đức Kitô phải dẫn chúng ta tới yêu mến giới trẻ, một đặc tính Salêdiêng của đời sống chúng ta và một thách đố liên tục đối với Gia đình Don Bosco hôm nay và luôn mãi.
Còn tiếp…
(Đây là Bản dịch tạm thời. Nếu quý vị thấy có gì thiếu sót, xin vui lòng góp ý qua email:
thegioisaledieng@gmail.com. Chúng con hết lòng cám ơn. Xin Chúa chúc lành cho quý vị!)
Gia Thi, SDB chuyển ngữ